Tiếp tục mạch chuyện lịch sử “Cung đường thống nhất” kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng ền Nam, thống nhất đất nước, PV VOV Giao thông đối thoại cùng ông Phạm Hồng Sơn, nguyên Giám đốc Ban Hồ Chí Minh để tìm hiểu nguồn gốc của quyết định xây dựng lại con đường huyền thoại này và câu chuyện tiêu 1 nghìn tỷ trong 5 năm mới hết.
PV: Thưa ông, là một trong những người gắn bó với công trình đường Hồ Chí Minh từ những ngày đầu tiên, ông có thể chia sẻ quyết định lịch sử xây dựng con đường này ra đời như thế nào?
Ông Phạm Hồng Sơn: Sau khi kết thúc giai đoạn cuối của việc xây dựng đường dây 500kv Bắc - Nam thì Đảng và Nhà nước đã có chủ trương chuẩn bị xây dựng tuyến đường dọc theo đường dây 500kv. Lúc đầu lấy tên xa lộ Bắc – Nam. Chúng tôi làm công tác chuẩn bị, thật ra lúc đó chúng tôi cứ chuẩn bị dự án thôi, nhưng nguồn vốn thì chưa rõ. Sau đó, cuối năm 1998, Quốc hội họp và quyết định giãn tiến độ của 8 dự án thì một trong 8 dự án đó là công trình xa lộ Bắc – Nam.
Sau đó, bước sang năm 1999, hai trận “đại hồng thủy” ở khu vực ền Trung, lũ lụt cực lớn xảy ra, đèo Hải Vân đứt đôi, còn đường xá thì đường 1 gần như bị ngập băng, tắc hết cả, giao thông bị đình trệ… Sau trận “đại hồng thủy”, Bộ Chính trị mới họp và quyết định khẩn trương làm công trình này, nhưng đổi tên thành đường Hồ Chí Minh.
Lúc đầu quy mô đề ra rất khiêm tốn, tức là những đoạn nào có độ dốc từ 5 - 6% trở lên mới được láng nhựa, còn lại chỉ làm mặt đường đá sỏi thôi. Nếu như chỉ mặt đường cấp phối thiên nhiên, kết hợp với việc nâng cấp những đoạn 5-6% là láng nhựa thì tổng mức đầu tư khoảng 4.800 tỷ đồng. Bây giờ ta thấy nói 4.800 tỷ là bình thường, nhưng lúc đó 4.800 tỷ đã là một con số khủng khiếp. Nhưng sau đó chúng tôi có dự phòng một phương án, nếu thảm bê tông nhựa thì tổng mức đầu tư sẽ là 5.300 tỷ. Sau này khi kết thúc giai đoạn 1, tổng mức đầu tư lên xấp xỉ 12 nghìn tỷ.
Hai nữa là chúng ta bổ sung nhiều lắm, lúc đầu quy mô rất khiêm tốn, nhưng sau đi qua tỉnh nào cũng yêu cầu mở rộng, rồi làm đường hoàn trả. Mặt đường lúc đầu khiêm tốn như thế, chỉ là cấp 4 thôi, nhưng sau này ta mở rộng thành cấp 3, mở rộng mặt đường từ 7m lên đến hơn 8m, có những đoạn đi qua thị trấn, thị tứ, vùng đông dân cư thì mở rộng thành 4 làn xe, có dải phân cách.
Khi đó không phải chúng ta làm theo cách vừa thiết kế vừa thi công đâu, mà chúng ta thiết kế xong đến đâu thì triển khai thi công đến đó, còn dự toán lúc đó đều là tạm duyệt, bởi nếu mà theo quy định mà cân đong đo đếm để duyệt cho kỹ thì tốn nhiều thời gian quá. Anh em thì nằm sẵn trên công trường rồi, chờ đợi rồi, cho nên là mới giao nhiệm vụ cho anh một công địa lớn như thế thì anh mới bắt đầu tập kết nhân lực vật lực, rồi làm lan trại, công trường trên một công địa dài như thế, nhưng mà thiết kế xong đoạn nào thì triển khai thi công trước.
PV: Như ông đề cập từ đầu, nguồn vốn cho dự án lúc đó rất khó. Vậy câu chuyện đó được giải quyết như thế nào?
Ông Phạm Hồng Sơn: Tôi nhớ giai đoạn đó Chính phủ có chủ trương huy động trái phiếu Chính phủ. Tôi nghĩ trái phiếu Chính phủ này rất hay, hay hơn việc đi vay nước ngoài, vì thực ra tiền bạc trong dân còn phong phú, còn nhiều lắm, sức mạnh trong dân còn rất nhiều. Nên tôi nghĩ trái phiếu Chính phủ này khi cần thì mình huy động. Hai nữa nên có ưu đãi về lãi.
Nhưng cái thứ hai, đến khi triển khai dự án đường Hồ Chí Minh thì quyết định đầu tư rồi, nhưng vốn mới ghi được mấy chục tỷ để làm công tác chuẩn bị thôi, chứ còn vốn là chưa rõ. Sau đó có một anh ở Văn phòng Chính phủ xuống hỏi chúng tôi là: “bây giờ chúng tôi chuẩn bị cho cậu 1 nghìn tỷ, có đủ không? Mình đang mấy chục tỷ mà lên 1 nghìn tỷ thì… em nghe con số anh nói, ngoài sức tưởng tượng. Cái tiền này đặc biệt đến mức năm 2000 tiêu hết có 70 tỷ.
Không có tiền thì lo, nhưng có tiền rồi lại không tiêu được. Mãi đến 2005 mới tiêu hết 1 nghìn tỷ đó. Nhưng qua đó để nói rằng không có những quyết sách mạnh bạo như thế thì để triển khai một dự án, công trình quan trọng quốc gia đó là vô cùng khó khăn.
PV: Theo ông, ý nghĩa nào do công trình đem lại, mà ông thấy tâm đắc nhất?
Ông Phạm Hồng Sơn: Nói đến đường Hồ Chí Minh là gì, còn một mục đích nữa, một ý nghĩa nữa, đó là tri ân. Sau khi có đường Hồ Chí Minh thì đồng bào hai bên đường có cơ hội để giao lưu, giao thương và có cơ hội để phát triển văn hóa xã hội và kinh tế.
Cách đây 4 năm tôi có cơ hội được vào thăm thị trấn A Lưới, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thấy vùng đất đấy phát triển dọc hai bên đường, bây giờ người ta đã phấn đấu lên thị xã, từ một huyện nghèo như thế, sau 20 năm, 30 năm đang phấn đấu để lên thị xã. Để thấy rằng xây dựng đường Hồ Chí Minh mang lại hiệu quả vô vùng thiết thực, ý nghĩa vô cùng lớn lao.
PV: Xin cảm ơn ông.