Hà Nội - 02437919191    TP. Hồ Chí Minh - 02839919191    MekongFM - 02838309090
  • Hà Nội - 02437919191   
  • TP. Hồ Chí Minh - 02839919191   
  • MekongFM - 02838309090   
Đường mòn thời chiến nay thành Đại lộ của Hòa bình Đường mòn thời chiến nay thành Đại lộ của Hòa bình
Quách Đồng - Hải Hà - Hoàng Hà - Hồng Lĩnh   •   8:42 21/04/2025

50 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đường Trường Sơn đã đi vào lịch sử như một huyền thoại, một biểu tượng của ý chí cách mạng mà cả dân tộc đã xây dựng nên. Nay, đường Hồ Chí Minh đã và đang mở ra giai đoạn phát triển mới, trở thành một trong những con đường huyết mạch, nối 2 miền Nam - Bắc.

Giống như thế, những cung đường huyền thoại làm lên chiến thắng năm xưa, như đường mòn trên biển, đến Quốc lộ 1, nay đã được nâng tầm, trở thành những con đường huyết mạch, thể hiện rõ vai trò “đi trước mở đường”. Từ đó, nhiều bản làng thâm u của hàng chục năm trước giờ thành phố xá đông vui.

Từng thực hiện nhiều công trình trọng điểm, nhưng với thiếu tá Trần Đình Ngân, Giám đốc Ban điều hành gói thầu XL11 dự án Bãi Vọt – Hàm Nghi, việc được tham gia xây dựng dự án cao tốc Bãi Vọt – Hàm Nghi đặc biệt có ý nghĩa, khi được góp một phần công sức, trí tuệ xây dựng những con đường huyết mạch của đất nước.

“Trên toàn tuyến chúng tôi có tới 67% là đất yếu, nhưng chúng tôi luôn trau dồi, học hỏi kinh nghiệm, bàn bạc đưa ra giải pháp đắp gia tải và dỡ tải sao cho phù hợp. Đến thời điểm này chúng tôi đã làm chủ được toàn bộ phần đất yếu, đã dỡ tải 100%, đó là thành tựu trí tuệ nghiên cứu của anh em chúng tôi”, Thiếu tá Trần Đình Ngân cho biết.

Với ông Hoàng Hữu Thanh - người con quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh, 32 năm gắn bó với cabin máy xúc, máy ủi, rồi những cỗ máy rải bê tông nhựa hiện đại nhất, ông chỉ mong có sức khỏe để tiếp tục đóng góp cho quê huơng.

Ông Thanh rất tự hào khi được tham gia xây dựng tuyến đường ngay trên chính quê hương mình: “Chúng tôi quyết tâm làm 3 ca 4 kíp dậy sớm, làm khuya để hoàn thành công việc được giao. Tuy là vất vả nhưng khi còn sức tôi sẽ cố gắng làm, xây dựng cho đất nước nên tôi muốn làm cho được nhiều”.

Kỹ sư Nguyễn Khắc Trung, Giám đốc điều hành dự án cao tốc Hàm Nghi – Vũng Áng cũng cho hay, trong dự án, cách thức tổ chức thi công, giải pháp kỹ thuật phù hợp và ý thức trách nhiệm của con người là yếu tố quyết định, hóa giải những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua được ở dự án này:

“Chúng tôi chú trọng hơn về quản lý giải pháp, yếu tố công nghệ để giúp nhà thầu nâng cao khả năng về quản lý, từ đó tạo ra hiệu quả. Sau dự án này đội ngũ cán bộ quản lý của nhà thầu, của tư vấn, thậm chí của Ban cũng được trau dồi, được tích lũy kinh nghiệm và tầm quản lý được nâng cao hơn. Trước đây chúng ta quản lý các gói thầu từ 10 tỷ, 50 tỷ, rồi 100 tỷ, nhưng bây giờ ta đã có gói thầu ngàn tỷ, thậm chí là 10 nghìn tỷ đồng”.

Tại dự án Vạn Ninh - Cam Lộ, đoạn qua huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, những ngày cuối tháng 3 rộn vang tiếng máy. Kỹ sư Trần Khánh Toàn, cán bộ giám sát, Công ty Cổ phần Trường Thịnh cho hay, các công nhân, kỹ sư đang chạy đua với thời gian để kịp hoàn thành việc thi công mặt đường vào đúng dịp 30/4:

“Để hoàn thành về đích được vào 30/4, đơn vị đã dồn toàn bộ lực lượng máy móc, vật tư, thiết bị… để tập trung, đạt tiến độ sắp tới. Lao động trên công trường là làm 3 ca, 4 kíp và đảm bảo các chế độ đầy đủ để động viên anh em tập trung để làm, đạt tiến độ được giao”, kỹ sư Trần Khánh Toàn khẳng định.

Vừa kiểm tra thi công các hạng mục ATGT, lắp đặt dải phân cách giữa, đóng tôn lượn sóng ven đường, Trung tá Nguyễn Huy Sỹ, Phó giám đốc Ban Điều hành Trường Sơn 6, Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn cũng chia sẻ quyết tâm hoàn thành công trình vào dịp kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam 30/4.

Trung tá Nguyễn Huy Sỹ khẳng định: “Tất cả những hạng mục, cái gì làm trước, cái gì làm sau, tiến độ hàng ngày, hàng tuần và chủ đầu tư còn họp tại công trường nữa cơ. Chúng tôi bố trí nhiều mũi thi công, tăng ca tăng kíp, quyết tâm 30/4 này thông xe kỹ thuật tuyến chính và 30/6 xong toàn bộ dự án”.

Theo Bộ Xây dựng, dự án cao tốc Bãi Vọt – Hàm Nghi, Hàm Nghi- Vũng Áng và Vạn Ninh - Cam Lộ là 3 trong số 5 dự án cao tốc dự kiến thông tuyến chính trước ngày 30/4. Để hoàn thành mục tiêu hết năm 2025 cả nước có trên 3.000 km cao tốc, Bộ Xây dựng đang chỉ đạo các địa phương đẩy nhanh tiến độ thi công 28 dự án với tổng chiều dài gần 1.200 km.

Chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc của mạng lưới đường bộ hiện nay, ông Nguyễn Ngọc Đông, Nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT không giấu nổi sự vui mừng. Bởi nhìn lại, năm 1975, ở miền Bắc, không có tuyến đường nào đạt cấp kỹ thuật đồng bộ.

Đến những năm 80, hệ thống đường bộ của cả nước mới có khoảng 48.000 km, trong đó, quốc lộ hơn 10.600 km, hơn 260.000 km đường giao thông nông thôn. Thậm chí, giai đoạn 1980 - 1990, hầu như các tuyến Quốc lộ cũng chủ yếu được cải tạo, sửa chữa.

Phải đến những năm 1993, 1994, cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế, sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), Việt Nam đã đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp hàng loạt tuyến quốc lộ, trong đó chỉ riêng Quốc lộ 1A đã dài hơn 1.700km từ Lạng Sơn đến Cà Mau, làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của tuyến huyết mạch của đất nước.

Ông Nguyễn Ngọc Đông tự hào nhớ lại: “Dự án triển khai bắt đầu từ năm 94 và kết thúc của nâng cấp, cải tạo quốc lộ 1 vào năm 2003, 2004, tức là khoảng 10 năm nâng cấp, cải tạo quốc lộ 1, kể cả chuẩn bị đầu tư, về giải phóng mặt bằng, triển khai và bây giờ nó vẫn còn đó. Ví dụ như là từ Hà Nội đi Bắc Ninh, đi lên Lạng Sơn vẫn như cũ, trừ cao tốc mới, còn trước đường đấy cũng là 4-6 làn là làm đến Bắc Ninh cũng vẫn thế”.

Video nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Ngọc Đông: "Việc cải tạo, nâng cấp hơn 1.700km của Quốc lộ 1A từ Lạng Sơn đến Cà Mau, làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của tuyến huyết mạch của đất nước"

Cùng với Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh cũng được Đảng, Chính phủ quyết tâm đầu tư xây dựng để con đường huyền thoại tiếp tục viết lên những trang sử hào hùng trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, để đường Hồ Chí Minh đóng vai trò trục dọc thứ hai bảo đảm vận tải Bắc - Nam liên tục và từng bước hòa vào hệ thống đường xuyên Á.

Gắn bó với đường Hồ Chí Minh từ thời mới được khảo sát tuyến, ông Phạm Hồng Sơn, nguyên giám đốc Ban Hồ Chí Minh không thể quên những tháng ngày rong ruổi trên những con đường mòn mang màu đất đỏ, những tháng ngày thấp thỏm khi Quốc hội khóa X (năm 1998) quyết định giãn tiến độ dự án đường Hồ Chí Minh, đến mừng rơi nước mắt khi Bộ Chính trị quyết định khẩn trương làm công trình này và đổi tên từ Xa lộ Bắc Nam thành đường Hồ Chí Minh.

Ông Phạm Hồng Sơn nhớ lại: chiều dài toàn tuyến được phê duyệt là 1.300km, từ Xuân Mai (Hà Nội) đi Ngọc Hồi (Kon Tum) và trục phía Tây là từ ngã 3 Khe Rác (Quảng Bình) đến Nam Giang (tỉnh Quảng Nam).

Ban đầu quy mô đường Hồ Chí Minh rất khiêm tốn, nhưng sau đó, đi qua tỉnh nào cũng yêu cầu mở rộng mặt đường từ 7m lên hơn 8m, có những đoạn đi qua thị trấn, thị tứ, vùng đông dân cư thì được mở rộng thành 4 làn xe, có dải phân cách, quy mô tăng dần, và trở thành một trong những trục dọc huyết mạch của đất nước như ngày nay:

Ông Phạm Hồng Sơn bồi hồi nhớ lại: “Những đoạn nào có độ dốc từ 5% mới được láng nhựa, còn lại trải đá sỏi, sỏi đỏ, hay cấp phối. Cũng có phương án 2 là nếu có điều kiện sẽ thảm bê tông nhựa hết. Nếu mức chỉ mặt đường cấp phối thiên nhiên kết hợp 5-6% láng nhựa thì tổng vốn khoảng 4.800 tỷ.

Ta thấy bây giờ 4.800 tỷ là bình thường, nhưng lúc đó con số 4.800 tỷ là kinh khủng, khủng khiếp. Nhưng chúng tôi cũng dự phòng một phương án, nếu thảm toàn bộ, khoảng 5.300 tỷ. Quyết toán cuối cùng xấp xỉ 12 nghìn tỷ vào năm 2017”.

Còn ông Hồ Nghĩa Dũng, nguyên Bộ trưởng Bộ GTVT cũng bày tỏ niềm tự hào khi là một trong những người có đóng góp lớn cho sự ra đời của quy hoạch mạng lưới cao tốc cũng như sự hình thành và phát triển hàng trăm km cao tốc đầu tiên của Việt Nam.

8 năm, từ thời điểm manh nha xây dựng quy hoạch mạng lưới cao tốc đầu tiên năm 2000, cho đến năm 2008, khi quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, có những thời điểm, lãnh đạo Bộ GTVT phải “chạy như con thoi”, giữa Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, rồi đứng ra bảo lãnh vốn vay ODA, vốn trái phiếu Chính phủ để tìm ra mô hình doanh nghiệp giống như Tổng công ty Đầu tư và Phát triển Đường cao tốc VN vay lại để đầu tư làm đường cao tốc.

Sự ra đời của các tuyến cao tốc như: Pháp Vân – Cầu Giẽ, Hà Nội – Lào Cai; cho đến Sài Gòn- Trung Lương, TP. HCM - Long Thành- Dầu Giây… với tổng chiều dài các tuyến cao tốc lên đến gần 600km đã cho thấy hiệu quả của mô hình này.

Từ 600 km cao tốc đầu tiên, đến nay, mạng lưới cao tốc ngày càng được kéo dài, mở rộng, với mục tiêu hết năm 2025, cả nước sẽ có khoảng 3.000km cao tốc. Khi những cao tốc này hoàn thành sẽ mở ra một không gian mới, một phương thức giao thông văn minh và không chỉ đơn thuần yếu tố là vận tải, giao thông, mà quan trọng nhất, còn bao hàm yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, liên kết vùng miền với nhau một cách nhanh nhất để phát triển kinh tế ở các vùng mà hệ thống đường cao tốc đi qua, cũng như góp phần phát triển kinh tế chung của đất nước.

Tiếp nối truyền thống hào hùng của những cung đường huyền thoại được nâng tầm, trở thành những trục dọc giao thông huyết mạch của đất nước như đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 1A, cao tốc Bắc – Nam, mà đường mòn trên biển năm xưa cũng được chuyển mình, mở ra không gian tiếp cận mới bằng con đường vận tải biển đặc biệt quan trọng, đưa hàng hóa Việt Nam dễ dàng tiếp cận thị trường thế giới.

Nếu như con đường Hồ Chí Minh trên biển năm xưa đã góp phần quan trọng trong việc vận chuyển vũ khí, đạn dược và bộ đội chi viện cho chiến trường miền Nam, thì ngày nay, mạng lưới cảng biển, vận tải biển, sông pha biển đang là yếu tố thúc đẩy trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và phát triển kinh tế. Những cung đường vận tải biển, những cảng biển ngày nay đã kế thừa và phát triển mở rộng như thế nào từ những di tích lịch sử năm xưa?

Ngày 15/4/1966, Cựu chiến binh Lê Xuân Khảm, vốn là giảng viên trường Đại học Hàng hải, cùng với 15 chiến sĩ đã khởi hành chuyến tàu mang mã hiệu C69 chở 62 tấn vũ khí chi viện cho miền Nam. Khi vào đến khu vực Đà Nẵng, con tàu đã bị địch phát hiện, theo dõi và đánh phá khiến cho nhiều chiến sĩ phải hi sinh, tàu không thể quay trở lại Bắc.

Chuyến đi định mệnh đã khiến cựu chiến binh Lê Xuân Khảm mất liên lạc với gia đình hàng chục năm, ông chỉ có thể trở về nhà và quay trở lại làm việc tại trường Đại học Hàng hải vào năm 1983. Chứng kiến sự thay da đổi thịt của ngành hàng hải từng ngày, người cựu chiến binh không giấu được niềm tự hào:

“Từ năm 1983 trở lại đây, tôi chứng kiến ngành kinh tế của Việt Nam phát triển nhanh, đặc biệt đội tàu và cảng biển phát triển mạnh. Ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam phát triển mạnh. Trước khi tôi đi, ngành đóng tàu mới chỉ có một nhà máy đóng tàu Bạch Đằng làm được tàu 2.000 tấn (tàu 20/7), sau này, mình đã đóng được tàu 5.000 tấn, 10 nghìn tấn và gần đây đóng được tàu 40 nghìn tấn. Đấy là phát triển rất nhanh của ngành đóng tàu”.

Năm 2016: Việt Nam có 1.200 tàu, tổng trọng tải 5 triệu tấn

Năm 2024: Việt Nam có 1.500 tàu, tổng trọng tải 11 triệu tấn

Theo thông tin từ Cục hàng hải và đường thủy Việt Nam, đội tàu biển của Việt Nam tăng trưởng mạnh về số lượng. Năm 2000, đội tàu biển chủ yếu là các tàu trọng tải nhỏ, chở hàng rời và chở hàng dầu. Tuy nhiên, đến năm 2016, đội tàu biển Việt Nam đã có trên 1.200 tàu với tổng trọng tải 5 triệu tấn; số tàu năm 2024 đạt khoảng 1.500 tàu với tổng trọng trên 11 triệu tấn. Hiện cả nước có hơn 120 nhà máy đóng, sửa chữa tàu với tổng trọng tải trên 1.000 tấn, năng lực đóng tàu mới trên 1 triệu tấn (DWT)/năm.

Bên cạnh phát triển công nghiệp đóng tàu và đội tàu biển, ngành hàng hải còn phát triển mạnh hệ thống cảng biển. Gắn bó 25 năm với lĩnh vực hàng hải, ông Nguyễn Xuân Tuấn, Phó Trưởng Phòng Kết cấu hạ tầng Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam đã có nhiều lần được đi thực địa, khảo sát, thăm lại các cảng biển lịch sử đóng góp quan trọng cho sự thành công của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, như Bến tàu Không số Nam Đồ Sơn, Bến cảng Cửa Lò- Cửa Hội (Nghệ An), bến cảng Gianh (Quảng Bình), bến cảng Vũng Rô (Phú Yên), cảng Cà Mau.

Đến nay, sau 50 năm hòa bình, thống nhất đất nước, một số cảng biển đã có nhiều sự đổi thay nhưng đến nay, những cảng biển đã phục vụ cho đường Hồ Chí Minh trên biển, hiện nay vẫn có ý nghĩa lịch sử.

Ông Nguyễn Xuân Tuấn - Phó Trưởng Phòng Kết cấu hạ tầng Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam

Kết quả của sự phát triển hệ thống cảng biển thể hiện rõ nhất về sự tăng trưởng cả về số lượng và độ dài của cảng biển. Nếu như thời điểm sau khi giải phóng đất nước, Việt Nam mới có khoảng 10 cảng biển, chiều dài khoảng xấp xỉ 2 km, thì đến nay, sau 50 năm phát triển, cả nước đã có 34 cảng biển, hơn 300 bến cảng với chiều dài trên 100 km trải dọc khắp đất nước.

Đặc biệt, kể từ khi phát triển cảng biển theo quy hoạch vào năm 2.000, sau mỗi thập kỷ, hệ thống cảng biển đều tăng khoảng 3 lần về chiều dài và năng lực khai thác. Sau 24 năm, năng lực thông qua hàng hóa đã tăng 10,5 lần, từ mức 80 triệu tấn hàng năm 2.000 lên mức 860 triệu tấn hàng hóa vào năm 2024 với 29 triệu TEU hàng container.

Empty
Vận tải biển năm xưa và vận tải biển ngày nay có sự gắn kết trong phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng

PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh

Trong chiến tranh, quá trình vận chuyển hàng hóa từ Bắc vào Nam theo hướng “hàng hải địa văn”, tức là bám theo bờ biển, các điểm, các đảo, đi theo các mục tiêu, ngày nay, vận chuyển hàng hóa theo “hàng hải thủy văn”.

Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh, nguyên Phó chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, các tuyến vận tải hiện nay dựa trên một phần các tuyến vận tải cũ, mở rộng và tìm ra các luồng lạch đi phù hợp với hệ thống phương tiện cỡ lớn.

“Vận tải biển ngày nay dựa trên tinh thần và kinh nghiệm của những tuyến đường cũ, có sự gắn kết giữa lịch sử và hiện tại, tạo điều kiện phát triển kinh tế biển mở rộng hơn, toàn diện hơn và gắn kết hơn với ven bờ và trong lục địa, liên kết kinh tế biển với kinh tế lục địa. Chúng ta thấy được có sự gắn kết giữa vận tuyến tải biển năm xưa và vận tải biển ngày nay trong cả phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng và trong sự kết nối trong tương lai”, PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh phân tích.

Song song với phát triển các tuyến vận tải biển Bắc- Nam và hệ thống cảng biển, mạng lưới vận tải biển đã ngày càng được mở rộng trong nước và nước ngoài. Các tuyến vận tải biển hiện đại của Việt Nam đã kết nối mạnh mẽ với các thị trường lớn, như: thị trường Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ.

Các tàu container cỡ lớn, với tải trọng lên đến 18 nghìn TEU, hiện nay có thể cập cảng trực tiếp tại các cảng biển nước sâu của Việt Nam như cảng Cái Mép – Thị Vải và cảng Hải Phòng. Đặc biệt, từ năm 2014, ngành vận tải đã phát triển thêm tuyến sông pha biển góp phần không nhỏ cho giao thương hàng hóa giữa các vùng miền và giảm chi phí logistics.

Bà Nguyễn Thị Thương, Phó phòng vận tải an toàn và phương tiện của Cục Hàng hải và đường Thủy Việt Nam cho biết, loại hình sông pha biển có mức tăng trưởng, trung bình 30%/năm. Đến hết năm 2024 đã có hơn 450 nghìn lượt phương tiện sông pha biển ra vào các cảng biển và bến thủy nội địa, với tổng khối lượng vận chuyển đạt gần 550 triệu tấn, trung bình đạt gần 4,5 triệu tấn/tháng, đã giảm tải cho đường bộ rất lớn (tương đương khoảng 150.000 xe ô tô chở hàng hạng nặng loại 30 tấn/xe).

Với lợi thế về bờ biển trải dài, dọc theo hướng Bắc- Nam, Việt Nam có hơn 100 địa điểm tự nhiên có tiềm năng làm cảng biển. Từ ngày thống nhất đất nước, Chính phủ đã rất chú trọng đến quy hoạch cảng biển, đầu tư tập trung vào một số cảng biển theo từng thời kỳ.

Thời gian gần đây, tập trung vào phát triển các cảng nước sâu nhằm đón các tàu container trọng tải lớn của quốc tế, để thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đi các nước. Hiện lĩnh vực vận tải biển vận chuyển tới 80% hàng hóa xuất nhập khẩu. Trong đó, sản lượng hàng hóa container hiện đạt 19 triệu TEU / 1 năm.

PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch Hội nghề cá Việt Nam, thành viên Ban điều hành quốc tế về Diễn đàn đại dương toàn cầu, khẳng định tầm quan trọng của lĩnh vực vận tải biển trong phát triển kinh tế nói chung. Trong đó, hệ thống cảng biển Việt Nam đóng góp rất lớn không chỉ cho kinh tế hàng hải mà cho kinh tế chung của đất nước và hội nhập quốc tế.

Ông Hồi nhấn mạnh: “Phát triển cảng và vận tải biển không phải chỉ để phát triển thương mại, mà còn gắn với an ninh quốc phòng, nhất là trong bối cảnh biển Đông và tình hình quốc tế phức tạp. Chính vì thế, việc bố trí cảng lớn, nhỏ ở trong đất liền, vùng cửa sông, ở các vũng, vịnh và các đảo ven bờ như thế nào, thì còn phụ thuộc vào ý đồ về tổ chức lãnh thổ để làm sao chúng ta khai thác hiệu quả lớn nhất”.

PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch Hội nghề cá Việt Nam, thành viên Ban điều hành quốc tế về Diễn đàn đại dương toàn cầu: "Phát triển cảng biển và vận tải biển không phải chỉ phát triển thương mại mà còn gắn với an ninh quốc phòng"

Cùng với phát triển vận tải biển để mở mang kinh tế đất nước, vấn đề bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trên biển luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng.

Sau ngày thống nhất nước nhà, phát huy chiến tích “đường Hồ Chí Minh trên biển”, Lữ đoàn 125 (đơn vị tiền thân Đoàn Vận tải biển 759 - Đoàn Tàu Không số) tiếp tục làm nhiệm vụ chi viện cho quần đảo Trường Sa, nhà giàn DK1, trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc và vùng biển, hải đảo khác, đồng thời trực chốt, góp phần bảo vệ thắng lợi và vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.

Đại tá Phạm Minh Chiến – Chính uỷ Lữ đoàn 125, Vùng 2 Hải quân nhấn mạnh, những chiến công của đoàn Tàu Không số đã để lại nhiều bài học quý báu cho thế hệ sau:

“Phải thường xuyên xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm cao, có lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Luôn nêu cao tinh thần Cách mạng tiến công; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc".

Là một sĩ quan Hải quân, Đại uý Nguyễn Văn Mạnh - Thuyền trưởng Tàu 608, Hải đội 811, Lữ đoàn 125 tự hào khi được đứng trong hàng ngũ những người lính biển kiên trung.

Khi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và trong quá trình xử lý các tình huống tác chiến, vị thuyền trưởng chia sẻ, anh phải đưa ra quyết định nhanh, chính xác, dứt khoát; nhưng vẫn phải đảm bảo đúng phương châm, đối sách của Đảng và Nhà nước, Quân đội, Quân chủng, giữ vững môi trường hoà bình.

“Hiện nay, những con tàu của Lữ đoàn 125 vẫn đang ngày đêm vươn khơi bám biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc là động lực thôi thúc bản thân tôi không ngừng cố gắng rèn luyện, hoàn thiện bản thân, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tiếp tục cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc".

Phát huy truyền thống của đơn vị hai lần được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu AHLLVTND, là một sĩ quan trẻ với niềm đam mê, nhiệt huyết cống hiến, Đại uý Vưu Iều Tôn, Chính trị viên Tàu 957, Hải đội 5 luôn xác định tàu là nhà, biển cả là quê hương.

“Bản thân tôi không ngừng học tập để trau dồi trình độ chuyên môn, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao vì đặc thù mỗi chuyến đi biển thường hoạt động dài ngày, trong thời tiết khắc nghiệt nên không được chủ quan, lơ là".

Chuẩn đô đốc Lê Bá Quân, Tư lệnh Vùng 2 Hải quân khẳng định, tinh thần, khí thế của đoàn Tàu Không số năm xưa vẫn được các thế hệ hôm nay tiếp nối, trở thành truyền thống vẻ vang của Lữ đoàn 125 nói riêng, Vùng 2 Hải quân nói chung.

“Cán bộ, chiến sĩ luôn quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách; tích cực, chủ động trong huấn luyện, làm chủ vũ khí trang bị mới, hiện đại; rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí quyết tâm, tinh thần “yêu biển, yêu đảo, yêu nhà giàn và những con tàu; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc”.

Theo Đại tá Vũ Anh Tuấn, Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân, trong những năm qua, Quân chủng Hải quân luôn nắm chắc tình hình, chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân uỷ Trung ương và Bộ quốc phòng về những giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, xử trí đúng các tình huống trên biển, không để bị động, bất ngờ.

“Đẩy mạnh xây dựng, phát triển lực lượng Hải quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, gắn với xây dựng thế trận lòng dân, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân trên biển vững chắc. Coi trọng nghiên cứu, phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự và kỹ thuật quân sự hải quân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong tình hình mới".

64 năm đã trôi qua, Lữ đoàn 125, Vùng 2 Hải quân ngày nay là đơn vị vận tải chủ lực của Hải quân với trang thiết bị hiện đại, luôn sẵn sàng chiến đấu.

Hằng năm, Lữ đoàn tổ chức hàng chục lượt tàu thuyền trực bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển, kiên quyết, kiên trì đấu tranh, tuyên truyền xua đuổi hàng trăm lượt tàu cá, giàn khoan, tàu thăm dò nước ngoài vi phạm ra khỏi vùng biển Việt Nam, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên khu vực biển được phân công.

Cùng với nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, công tác dân vận, đối ngoại quốc phòng, đón, tiễn các đoàn đi thăm, làm việc trên quần đảo Trường Sa, nhà giàn DK1 được Lữ đoàn triển khai chu đáo, hiệu quả.

Đặc biệt ý nghĩa là Chương trình “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển” và hoạt động “Hải quân nhận đỡ đầu con ngư dân”. Qua đó, làm sáng đẹp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ - Người chiến sĩ Hải quân” trong lòng nhân dân, góp phần nâng cao tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.

Những cảng biển đón nhận những chuyến tàu chở vũ khí, hàng hóa năm xưa nay đã được mở rộng, phát triển thành những cảng hàng hóa. Tuyến vận tải trên biển năm xưa nay trở thành tuyến vận tải hàng hóa quan trọng của đất nước, tạo cơ hội phát triển và hội nhập.

Không chỉ các tuyến vận tải biển, hệ thống đường Trường Sơn xưa nay đang từng ngày đổi mới phát triển thành những quốc lộ, cao tốc hiện đại, mở ra những tuyến giao thông huyết mạch kết nối giữa các địa phương.

Từ những những con đường nhỏ in dấu chân người đã trở nên bất diệt trong chiến tranh, nay, đường Hồ Chí Minh đã và đang mở ra giai đoạn phát triển mới. Cùng với đó, những con đường cũ kỹ, nhỏ bé và tạm bợ đã dần nhường chỗ cho những quốc lộ, cao tốc hiện đại, mở ra những tuyến giao thông huyết mạch nối liền mọi miền đất nước.

Hành trình chuyển mình của hệ thống đường bộ không chỉ phản ánh sự phát triển vượt bậc của hạ tầng giao thông mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế, kết nối vùng miền và nâng cao chất lượng cuộc sống.

ĐỔI THAY TRÊN VÙNG ĐẤT MỚI

Đang ngồi xem tivi trong căn nhà 2 tầng mới xây khang trang giữa thị trấn nông trường Lệ Ninh, thấy khách đến, ông Trần Văn Phu, giáo viên trường THPT Hoàng Hoa Thám, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình thoăn thoắt đứng lên pha trà mời khách. Ông Phu là một trong những giáo viên đầu tiên xung phong đến nông trường Lệ Ninh dạy học, và cũng là một trong những người đầu tiên bàn giao gần 4.500m2 đất để xây dựng cao tốc Vạn Ninh - Cam Lộ.

“Làm xong nhà, vẫn còn trên dưới 1 tỷ, nên chúng tôi thấy rất thoải mái. Huyện cũng rất động viên, nên chúng tôi cũng rất phấn khởi. Cho đến nay, cuộc sống rất ổn định. Số đất 13m, làm một nửa, còn một nửa vẫn có rau màu, vẫn có cây cối, đủ ăn. Tâm trạng, nói thực là rất phấn khởi”, ông Phu phấn khởi khoe.

Cách nhà ông Phu một đoạn đường nhựa mới trải phẳng lì là gia đình anh Phạm Xuân Đoàn, 57 tuổi. Anh Đoàn có gần 1.000m2 đất thuộc diện thu hồi để lấy mặt bằng làm cao tốc Vạn Ninh- Cam Lộ.

Việc di dời, bàn giao mặt bằng, với anh Đoàn như một sự tự nhiên phải thế: “Đường cao tốc là đường chiến lược của đất nước thì mình phải chấp hành, phải di dời ra, nhường đất lại cho người ta thi công thôi. Ra đây thì mình có đồng tiền làm được cái nhà, đỡ hơn trong kia, với lại khí hậu ngoài này nói chung là thoáng mát hơn”.

Đồng hành cùng người dân trong cả quá trình di dời, bàn giao mặt bằng và cả việc giúp người dân dựng nhà ở nơi tái định cư, ông Nguyễn Đức Tâm, Phó Chủ tịch UBND thị trấn nông trường Lệ Ninh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình cho hay, trong số hơn 100 hộ thuộc diện bị thu hồi đất để làm cao tốc, có 54 hộ đủ điều kiện tái định cư, trong đó có 44 hộ đã nhận đất, được hỗ trợ để ổn định nơi ở mới.

“Ở đây trước mắt đối với các hộ thuộc diện công nhân hưu trí rồi thì cơ bản ổn định hơn, còn những hộ lao động tự do thì trước mắt tạo mọi điều kiện thuận lợi, ví dụ như mặt bằng thì tận dụng các khoảng không để mở các dịch vụ, kinh doanh, buôn bán”, ông Nguyễn Đức Tâm cho hay.

KÉO “CHIM ĐẠI BÀNG VỀ LÀM TỔ”

Với những dự án đã hoàn thành, hiệu quả đem lại không chỉ là tăng khả năng tiếp cận và tiêu thụ hàng hóa, mà còn kéo “chim đại bàng về làm tổ”. Điều này càng đúng với Lạng Sơn, bởi khi chưa có tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn, kinh tế của địa phương này chủ yếu dựa vào kinh tế cửa khẩu, du lịch, nông nghiệp và chế biến; đến khi đưa vào vận hành, khai thác tuyến cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn, đặc biệt là 2 tuyến cao tốc Hữu Nghị - Chi Lăng và Đồng Đăng - Trà Lĩnh đang được đầu tư, giúp cho kinh tế địa phương dần chuyển dịch theo hướng công nghiệp.

Ông Bùi Quốc Khánh, Giám đốc Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng tỉnh Lạng Sơn (nguyên Chủ tịch UBND huyện Hữu Lũng) khẳng định: “Sau khi có tuyến cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn một loạt doanh nghiệp lớn đã đến đầu tư các khu, cụm công nghiệp, đầu tư các khu dân cư, khu đô thị. Đơn cử như Tập đoàn VShip VN - Singapore đang triển khai đầu tư 1 KCN 600ha ở huyện Hữu Lũng và một số doanh nghiệp đầu từ vào các KCN từ 70-75ha, những dự án này đều hình thành sau khi có đường cao tốc”.

Nói về tuyến cao tốc Hàm Nghi – Vũng Áng đi qua địa bàn tỉnh Hà Tĩnh dự kiến sẽ thông xe dịp 30/4 này, ông Phạm Hoàng Anh, Phó Chủ tịch UBND huyện Cẩm Xuyên nhận định: “Với tuyến đường huyết mạch và trọng điểm này, đưa vào sử dụng sớm được ngày nào nó sẽ tác động tích cực rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, rồi lưu thông của bà con nhân dân. Nó sẽ đưa các vùng chiến lược xích lại gần nhau hơn, thời gian di chuyển giữa các vùng nguyên liệu phục vụ cho phát triển sản xuất rất thuận lợi”.

Tuyến đường bộ cao tốc Vân Phong – Nha Trang cũng sẽ đi vào khai thác vào 30/4 tới. Như vậy toàn bộ tuyến cao tốc phía Đông từ Khánh Hòa đi TP. HCM sẽ thông tuyến, các dự án cao tốc trục ngang, đường liên vùng cũng đang được tập trung triển khai. Đây là cơ hội để Khánh Hòa cùng các tỉnh vùng Nam Trung bộ bứt phá để phát triển kinh tế- xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng.

Ông Nguyễn Văn Dần, Nguyên Giám đốc Sở GTVT Khánh Hòa (nay là Sở Xây dựng Khánh Hòa) “khoe” với phóng viên: “Dự báo từ nay đến 2027 Khánh Hòa sẽ bố trí khoảng 20 nghìn tỷ đồng để đầu tư cho các tuyến đường, hoàn thiện kết nối liên hoàn, liên vùng để tạo thành hệ thống giao thông đồng bộ, kết nối giữa đường bộ với đường sắt, đường hàng không… Có thể nói hạ tầng giao thông chính là động lực để thu hút nhà đầu tư, đảm bảo cho quốc phòng an ninh, đảm bảo cho kinh tế phát triển và đảm bảo cho người dân đi lại được thuận tiện và an toàn”.

Không chỉ góp phần vào phát triển kinh tế địa phương, gia tăng cơ hội phát triển kinh tế liên vùng, việc phát triển mạng lưới đường bộ đồng bộ và hiện đại còn giúp rút ngắn thời gian đi lại, qua đó, góp phần tái cấu trúc đô thị. Ông Hồ Nghĩa Dũng, nguyên Bộ trưởng Bộ GTVT trải nghiệm những đổi thay này:

“Mình đã từng đi rất nhiều tuyến Hà Nội- Hải Phòng có khi đi 2 ngày, đi đến Hải Phòng có khi phải ngủ lại rồi mới về làm việc vì đường 5 cũ, nhưng khi cái đường 5 mới đưa vào, nếu bắt đầu vào tuyến đường cao tốc đi có hơn tiếng đã tới cảng Hải Phòng, cá nhân mình được hưởng thụ, nhưng các đơn vị vận tải, họ cũng thấy rõ ràng là hiệu quả như thế”.

Nguyên Bộ trưởng Bộ GTVT Hồ Nghĩa Dũng nhấn mạnh: "Những người làm giao thông rất tự hào khi lần đầu tiên được đi trên những con đường đẹp chưa từng được đi"

Nguyên thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Ngọc Đông chia sẻ sự phấn khởi trước cơ hội mang lại, vào thời điểm hàng loạt Quốc lộ được đầu tư, nâng cấp, mở rộng: như tuyến Pháp Vân - Cầu Giẽ, TP. HCM đi Tây Ninh… cải tạo trong vòng 10 năm, góp phần thay đổi bộ mặt các tuyến huyết mạch trong hệ thống đường bộ Việt Nam. Nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Ngọc Đông chia sẻ:

“Những tuyến này đưa lại hiệu quả hết sức lớn, chỉ nói về thời gian đi lại thôi, trước khi đi Hà Nội - Vinh mất 6-7 tiếng, sau khi làm xong hồi đó đi khoảng 4 tiếng rưỡi, sau đó thời gian dăm 10 năm sau, ta thấy nó lại ùn, khi đó lại phải làm cao tốc để rút ngắn thời gian. Như thế thì rất hiệu quả”.

Còn với ông Phạm Hồng Sơn, Nguyên Giám đốc Ban Hồ Chí Minh lại đặc biệt ấn tượng với sự phát triển mạnh mẽ, thay đổi toàn diện đời sống người dân hai bên đường sau khi đường Hồ Chí Minh được khánh thành và đưa vào khai thác. Chẳng hạn như huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên- Huế từ một huyện nghèo, đã vươn lên trở thành một thị xã sầm uất:

“Đi dọc đường Hồ Chí Minh tôi rất vui vì đời sống kinh tế của bà con tăng trưởng đáng kể. Đặc biệt nhất là cách đây 4 năm tôi có được vào thăm thị trấn A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế, sau 20 năm từ huyện nghèo, họ đã phấn đấu lên thị xã, để thấy rằng dân cư 2 bên đường và sức phát triển kinh tế của vùng đó. Chúng tôi đi qua đó mới thấy được xây dựng đường Hồ Chí Minh mang lại hiệu quả vô cùng thiết thực, và ý nghĩa vô cùng lớn lao”.

Đường Hồ Chí Minh đi đến đâu, cuộc sống của đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây đổi thay đến đó. Nhiều bản làng thâm u của hàng chục năm trước giờ thành phố xá đông vui.

Từ những con đường khốc liệt, gian khổ và heo hút trong chiến tranh, khi hòa bình và thống nhất đất nước, nhờ bàn tay, khối óc của biết bao thế hệ kỹ sư, công nhân xây dựng, với sự tham gia của người dân cả nước dưới lãnh đạo của Đảng ta, cả một hệ thống giao thông đã được củng cố, xây dựng, vươn rộng dài khắp đất nước và ngày càng trở nên hiện đại, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng sâu, vùng xa, đánh thức tiềm năng và phát huy nội lực, tạo tiền đề cho công cuộc phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh - quốc phòng, từng bước hội nhập, sẵn sàng đưa đất nước bước vào một kỷ nguyên mới.

Từ những con đường mòn hun hút giữa đại ngàn Trường Sơn, hay những lối đi lặng lẽ giữa biển khơi năm xưa, dân tộc Việt Nam đã viết nên một hành trình chuyển mình đầy kiêu hãnh. Những “đường mòn” thời chiến tranh nay đã trở thành đại lộ của hòa bình, phát triển và hội nhập. Đó không chỉ là sự thay đổi về hạ tầng hay kinh tế, mà còn là biểu tượng cho ý chí kiên cường, khát vọng vươn lên và tinh thần không ngừng đổi mới của cả một dân tộc, đưa đất nước vững bước trên con đường hiện đại hóa và phát triển bền vững.

Thưc hiện: Quách Đồng, Hải Hà, Hoàng Hà, Hồng Lĩnh

----

Mời các bạn nghe lại Từ đường mòn, đến đại lộ và ra biển lớn trên Apple Podcast: