Hà Nội - 02437919191    TP. Hồ Chí Minh - 02839919191    MekongFM - 02838309090
  • Hà Nội - 02437919191   
  • TP. Hồ Chí Minh - 02839919191   
  • MekongFM - 02838309090   
Cung đường thống nhất

Người đưa mổ nội soi về Việt Nam: Đặc ân to lớn là được sống trong hòa bình

Phan Nhơn: Thứ tư 30/04/2025, 14:59 (GMT+7)

Không phải đảng viên, không xuất thân từ gia đình cách mạng, chàng sinh viên y khoa Nguyễn Tấn Cường năm ấy đã âm thầm “lách qua khe cửa lịch sử” - không để mình bị lùi lại, không chọn rời đi, mà chọn ở lại, học tập, cống hiến và mở lối cho nền y học nước nhà.

Từ một người trẻ bước ra từ những ngày tháng Tư lịch sử, đến người tiên phong đưa công nghệ phẫu thuật nội soi hiện đại về Việt Nam, và đặt nền tảng ban đầu cho những đồng nghiệp tu nghiệp nắm bắt được kỹ thuật ghép gan; hành trình của PGS.TS Nguyễn Tấn Cường là minh chứng sống động cho ý chí vượt lên số phận và lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc.

[Xem thêm: Cung đường Thống nhất]

Trò chuyện với PGS. TS. BS Nguyễn Tấn Cường, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại, Đại học Y dược TP.HCM, nguyên Trưởng khoa Gan -Mật - Tụy Bệnh viện Chợ Rẫy.

 

ĐƯỢC ĐI MỸ HỌC VÌ CÁC THẦY CÔ KHÔNG NHÌN VÀO “LÝ LỊCH”

PV: Vào thời khắc lịch sử 30/4/1975, PGS đang ở độ tuổi nào, và ông còn nhớ ký ức năm tháng ấy đối với bản thân mình ra sao?

PGS. TS. BS Nguyễn Tấn Cường: Ngày 30/4/1975, tôi là sinh viên năm 2 Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, lúc đó khoảng 20 tuổi. Cảm xúc khi ấy cũng như mọi người dân Việt Nam: xúc động, háo hức, nhưng cũng lo lắng. Tôi băn khoăn liệu dưới chế độ mới, mình có tiếp tục được học y hay không, vì trước đó có nhiều lời tuyên truyền gây hoang mang.

Sau ngày giải phóng, sinh viên chúng tôi tạm dừng học chuyên môn một năm, thay vào đó được học lịch sử dân tộc, triết học, tham gia công tác xã hội, chơi thể thao, vào bệnh viện trực, học hỏi kinh nghiệm từ các đàn anh. Sau đó, việc học được nối lại bình thường cho đến khi ra trường.

Lớp phẫu thuật nội soi đầu tiên tại BV Đại học Y dược năm 1995

Lớp phẫu thuật nội soi đầu tiên tại BV Đại học Y dược năm 1995

PV: Sau chiến tranh, đất nước rất khó khăn, y tế thiếu thốn. Có lúc nào ông từng nghĩ sẽ rời đi tìm một chân trời mới như nhiều người khác không? Gia đình, bạn bè có thuyết phục ông “vượt biên” không?

PGS. TS. BS Nguyễn Tấn Cường: Hoàn cảnh gia đình tôi rất khó khăn: tôi mồ côi cha từ năm 2 tuổi. Mẹ tôi - một người phụ nữ không được học hành vì hoàn cảnh xã hội xưa - một mình nuôi sáu con chỉ bằng nghề giúp việc. Sau năm 1975, 2 anh tôi đã vượt biên và định cư ở Mỹ, có ý định bảo lãnh cả gia đình sang. Mẹ tôi lúc ấy nói: “Ai muốn đi thì đi, mẹ không cản”. 

Nhưng mẹ đã hy sinh cả đời cho chúng tôi, nên tôi không thể bỏ mẹ mà đi. Tôi ở lại, và chưa từng dao động chuyện ra nước ngoài định cư. Tuy nhiên, tôi luôn khao khát được ra nước ngoài học tập để mở mang kiến thức, chứ không phải để mưu cầu cuộc sống riêng.

PV: Được biết, đầu những năm 1990, ông có cơ hội sang Mỹ học công nghệ mổ nội soi, khi Việt Nam và Mỹ còn chưa bình thường hóa quan hệ. Kinh nghiệm đó có ý nghĩa thế nào đối với ông và bệnh nhân Việt Nam?

PGS. TS. BS Nguyễn Tấn Cường: Hơn 10 năm làm việc sau 1975, xã hội gần như khép kín, tiếng Anh của tôi học trước đó cũng bỏ quên. Năm 1990, tình cờ tôi đọc được thông báo về kỳ thi tiếng Anh của Ủy ban Khoa học Hợp tác Mỹ - Việt, ai đậu sẽ được học bổng du học.

Dù lúc ấy chưa bình thường hóa quan hệ, tôi vẫn đi thi chỉ với tâm thế kiểm tra năng lực. Sau khi đậu, việc cho tôi đi học gặp nhiều ý kiến phản đối: tôi không phải đảng viên, không thuộc gia đình cách mạng, có 2 anh “vượt biên” sang Mỹ, nhà vợ có người ở Canada.

PGS.TS.BS Nguyễn Tấn Cường thực tập mổ nội soi tại Indiana- Mỹ năm 1991

PGS.TS.BS Nguyễn Tấn Cường thực tập mổ nội soi tại Indiana- Mỹ năm 1991

Tuy nhiên, nhờ sự ủng hộ của thầy Trương Công Trung (Hiệu trưởng Đại học Y Dược, Đại biểu Quốc hội) và lãnh đạo Bệnh viện Chợ Rẫy, tôi được phép đi. “Nếu anh này đi học rồi đi luôn thì ta mất một cán bộ thường thôi, song nếu anh đi học trở về thì chúng ta có một cán bộ giỏi”, tôi được nghe những người bạn bên Đoàn thanh niên kể lại lời thầy phát biểu trong cuộc họp.

Rồi bác sĩ Đoàn Thúy Ba khi ấy đang là Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy nơi tôi làm việc cũng nói rằng: “Những người làm việc làng nhàng có giữ họ lại cũng không tiến bộ được gì, nếu anh này có đi luôn vẫn không sao vẫn có người thay thế được. Về thời gian có khi anh này quay lại hợp tác làm việc”.

Những lời này khiến tôi thật cảm động, các thầy lớn cô lớn đã có tầm nhìn xa, họ đã vượt qua những nỗi lo về trách nhiệm, nếu giới thiệu một người đi mà không về thì sẽ ảnh hưởng đến tổ chức rất nặng nề. Họ không nhìn vào “lý lịch” của tôi, đi học có cơ hội ở lại đó nhưng tôi không thể để mẹ già ở lại, không thể phụ lòng thầy cô tin tưởng.

Đến Mỹ học năm 1991, người thầy Maurice Arregui đã dạy tôi phương pháp phẫu thuật mổ nội soi - công nghệ lần đầu tiên phát triển tại Pháp năm 1987. Duyên may thầy đã đưa tôi đến giới thiệu đại diện các hãng thiết bị y tế tại Hội nghị ngoại khoa toàn nước Mỹ. Khi đó, họ hỏi tôi rằng: “Ông học phương pháp này khi trở về nước liệu ông có áp dụng được liền”.

Tôi chỉ biết đáp rằng rất khó, có khi phải mất thêm 10 năm nữa, hoàn cảnh bấy giờ băng gạc còn rất thiếu, y tá phải tận dụng chỉ nhập cảng trước 1975 để  hấp làm chỉ khâu vết thương. Đặc biệt, bệnh viện chỉ có duy nhất một máy đốt trong phẫu thuật, song giám đốc chỉ cho dùng trong phẫu thuật sọ não.

Trong khi, một bộ dụng cụ mổ nội soi khi ấy có giá từ 40.000 - 50.000 USD, áp dụng vào tình hình đất nước khi ấy thì muôn vàn khó khăn cho bệnh nhân.

Thật ra tôi không chọn phẫu thuật nội soi, thật sự phẫu thuật nội soi chọn tôi – đó là may mắn của lịch sử. Sau hội nghị ngoại khoa ở Chicago người đại diện gọi báo cho tôi rằng sẽ tặng một máy mổ nội soi là hàng trưng bày.

Đem về nước vào năm 1992, đây được xem là máy mổ nội soi đầu tiên ở Việt Nam, từ đó, mở ra một “kho báu” cho ngành ngoại khoa, ít nhiều đã cứu sống và làm nhẹ nỗi đau cho hàng triệu bệnh nhân.

Ca ghép gan người lớn đầu tiên tại BVCR năm 2012

Ca ghép gan người lớn đầu tiên tại BVCR năm 2012

PV: 50 năm qua, ông đánh giá thế nào về sự phát triển của nền y học nước nhà? Những dấu ấn nào nổi bật nhất theo ông?

PGS. TS. BS Nguyễn Tấn Cường: Theo tôi, trong 50 năm qua, Việt Nam có hai thành tựu y học vượt bậc:

Phẫu thuật nội soi: Chúng ta chỉ đi sau Pháp 5 năm, nhưng nhanh chóng bắt kịp và hiện nay có trình độ mổ nội soi rất cao. Các bác sĩ Việt Nam điêu luyện vì số lượng bệnh nhân đông và bệnh lý đa dạng, được quốc tế đánh giá rất cao.

Ghép tạng: Đây là kỹ thuật chỉ những nước có nền y học tiên tiến và kinh tế mạnh mới thực hiện được. Việt Nam ghép thận thành công năm 1992, ghép gan năm 2004, và nay đã ghép tim, ghép đa tạng. Đây là một kỳ tích, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của nội khoa, hồi sức cấp cứu và nhiều lĩnh vực y học khác.

Những thành tựu này có được nhờ sự quan tâm đầu tư rất lớn của Đảng, Nhà nước vào y tế: từ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đến đào tạo nguồn nhân lực.

CÙNG CHUNG SỨC CHO SỰ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

PV: Là người trải qua 50 năm sau ngày giải phóng miền Nam, ông cảm nhận thế nào về quá trình hàn gắn vết thương chiến tranh? Thế hệ sau liệu đã thực sự hoà nhập, đoàn kết?

PGS. TS. BS Nguyễn Tấn Cường: Tôi luôn nhớ lời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Không ai chọn cửa để sinh ra.” Sau 1975, nhiều trí thức miền Nam từng có mặc cảm vì quá khứ, có người chán nản, muốn ra đi.

Những năm sau đó, Việt Nam đối mặt muôn vàn khó khăn: phía Nam đánh Pôn Pốt, phía Bắc chiến tranh biên giới, bị Mỹ cấm vận, gần như bị cô lập quốc tế.

PGS.TS.BS Nguyễn Tấn Cường cho rằng, thế hệ trẻ đang sống trong đất nước hòa bình, người dân tự do có điều kiện tiếp cận tri thức toàn cầu, đó là một đặc ân to lớn

PGS.TS.BS Nguyễn Tấn Cường cho rằng, thế hệ trẻ đang sống trong đất nước hòa bình, người dân tự do có điều kiện tiếp cận tri thức toàn cầu, đó là một đặc ân to lớn

Tôi nhớ mãi hình ảnh lần học ở Mỹ năm 1991, khi muốn gửi một cuốn sách phẫu thuật về nước, nhân viên bưu điện từ chối vì sách nặng quá mức cho phép theo lệnh cấm vận tất cả những gì nặng hơn 10 pound (tương đương 4,5 kg) thì không được phép gửi về Việt Nam, quyển sách nặng đến 12 pound. Điều đó cho thấy sự nghiệt ngã với những điều tưởng nhỏ bé như tri thức cũng bị ngăn chặn.

Ngày nay, thế hệ trẻ đang sống trong đất nước hòa bình, người dân tự do có điều kiện tiếp cận tri thức toàn cầu – một đặc ân to lớn mà không phải thế hệ nào cũng có. Vết thương chiến tranh nay đã dần liền lại. Kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, theo tôi nghĩ, những lấn cấn giữa người cũ, người mới, trong nước, ngoài nước giờ đã nhạt nhòa – tất cả đều đang cùng chung sức cho sự phát triển đất nước.

Tôi rất vui mừng khi Nhà nước chủ trương miễn học phí từ mầm non đến phổ thông, vì giáo dục chính là chìa khóa để dân tộc vươn lên mạnh mẽ. Muốn có nhiều nhân tài phải thì phải làm sao có nền giáo dục tiên tiến.

Mỗi một thế hệ có đặc điểm riêng, cha ông đến thế hệ chúng tôi đã dính một cuộc chiến tranh dai dẳng, trải qua nhiều gian khổ. Điều đó đã dạy cho chúng tôi cách sống giản dị, luôn luôn cố gắng tìm cách vượt qua nghịch cảnh. Tôi tâm đắc với một câu nói: “ Giá trị của một con người không phải ở những lần thành công rực rỡ, mà chính ở những lần trỗi dậy, kiên trì sau mỗi lần thất bại”.

Chiến tranh Việt Nam đã để lại một bài học về lịch sử quật cường của dân tộc, bài học ấy còn áp dụng cho đến hôm nay. Hy vọng thế hệ trẻ với sự tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, học tập vươn lên luôn luôn kiên trì không bỏ cuộc trước mọi khó khăn để thích ứng, đóng góp công sức cho tập thể, mở rộng ra thì đó cũng là đóng góp cho đất nước.

PV: Xin cảm ơn phó giáo sư đã có cuộc chia sẻ!

Phan Nhơn/vovgiaothong.vn
Ý kiến của bạn