Đối xử với công nhân

Để giải quyết khó khăn trước mắt, nhiều công nhân đã phải gõ cửa các tổ chức, cá nhân chuyên cho vay nặng lãi và nhanh chóng trở thành nạn nhân của các hoạt động “tín dụng đen”. Với các gói vay tín dụng sẽ nhanh chóng giải quyết những khó khăn trong ngắn hạn của công nhân.

Ảnh nh họa

Con số hơn 1000 vụ cho vay nặng lãi với nhiều bị hại là công nhân được phát hiện trong vòng 3 năm qua, theo một đánh giá của Bộ Công an, mặc dù không gây bức xúc trong công nhân và xã hội nhưng cho thấy một thực tế là nhu cầu vay tiêu dùng của công nhân rất lớn.

Khoản thu nhập cố định từ lương không đủ trang trải cho các nhu cầu thiết yếu.

Một nguồn tín dụng ưu đãi từ ngân hàng cho công nhân trong lúc khó khăn là điều hết sức cần thiết và được công nhân mong chờ. Bởi ở đó, họ được pháp luật bảo vệ, không còng lưng chịu lãi cắt cổ, không bị đe dọa đòi nợ, siết nợ bằng các kiểu xã hội đen.

Đó giống như chiếc phao cứu sinh trong lúc công nhân đang chới với vì túng quẫn.

Nhưng họ sẽ tiếp cận bằng cách nào, mới là điều quan trọng. Nếu “chiếc phao” cất quá kỹ, được chằng buộc bằng những “sợi dây” thủ tục và điều kiện vay quá chặt, thì lại giống như câu chuyện của nhiều gói hỗ trợ, tín dụng khác: tiền nhiều, nhưng không tiêu được.

Và công ty tài chính, với thao tác một chạm là có tiền, sẽ tiếp tục là lựa chọn bất đắc dĩ của công nhân, trong lúc họ chỉ cần “sống được đã” rồi mọi chuyện tính sau.

Như vậy, nếu không giải quyết được vấn đề điều kiện và thủ tục, thì gói tín dụng sẽ không phát huy tác dụng. Trong khi, các hậu quả của tín dụng đen sẽ vẫn tiếp tục gây mất an ninh trật tự xã hội, cuốn thêm nhiều công nhân (và đằng sau là gia đình, người thân của họ) vào vòng xoáy không lối thoát.

Song, cái khó ở đây là việc đảm bảo các khoản vay không trở thành nợ xấu, trong khi năng lực trả nợ của người vay lại khó lòng đáp ứng.

Một nghiên cứu cách đây vài năm của Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Đông Nam Á (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TPHCM) đã chỉ ra, 76,6% công nhân vay để chi tiêu gia đình, giáo dục, sửa nhà. Số còn lại (chưa tới 25%) vay để trả nợ, để chữa bệnh, giúp đỡ cha mẹ, làm ăn.

Nhìn vào cơ cấu này, có thể thấy sự bế tắc về tài chính của công nhân. Bởi ngoài nhóm vay để làm ăn (tức là đầu tư cho một công việc khác đem lại nguồn thu nhập ngoài lương), thì các nhóm vay thuần túy tiêu dùng đều rất khó có khả năng trả nợ.

COVID-19 và sau đó là bão giá, càng chồng thêm gánh nặng lên những đồng lương công nhân ít ỏi. Và khả năng vỡ nợ này hoàn toàn có thể xảy ra khi công nhân vay ngân hàng để chi tiêu.

Tất nhiên, các nhà băng sẽ chỉ kiểm soát nợ xấu bằng điều kiện cho vay, vì không thể dùng cách đòi nợ như tín dụng đen. Mà điều kiện vay khó thì công nhân lại không với tới.

Vì vậy, ngoài việc cân nhắc các yếu tố này để tính toán thiết kế gói vay sao cho hiệu quả, trúng đối tượng, thì điều quan trọng hơn cả, là hỗ trợ công nhân bằng các giải pháp gián tiếp.

Các biện pháp bình ổn giá cả thị trường hàng hóa, đưa hàng bình ổn đến tay công nhân, giảm tiền thuê nhà và điện nước, các chính sách ễn giảm học phí học liệu cho con công nhân, các hỗ trợ chăm sóc sức khỏe thường xuyên từ phía công đoàn công ty nơi họ làm việc… được tiến hành trong thời gian đủ dài, sẽ góp phần giúp công nhân đỡ chật vật khó khăn.

Xa hơn và thường xuyên hơn nữa, là các chiến lược để nâng cao thu nhập cho công nhân trên cơ sở tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả làm việc bằng cách đào tạo và đào tạo lại, hiện đại hóa các dây chuyền sản xuất, để họ thực sự tự chủ với đời sống của mình, chứ không phải là cải thiện thu nhập bằng cách tăng ca.

COVID-19 với sự càn quét khốc liệt hai năm qua, đã làm lộ ra những lỗ hổng trong chăm sóc đời sống công nhân lâu nay, những bất ổn và thiếu sót trong cách mà các địa phương, các đô thị ứng xử với họ.

Đó là điều nhất định phải khác đi, phải khắc phục bằng được, khi bắt tay chữa lành các tổn thương để phục hồi và vực dậy sau COVID-19, không phải chỉ vì bản thân công nhân./.