Tìm giải pháp gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của doanh nghiệp Việt Nam trong CPTPP

Sau hơn 3 năm thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tỷ lệ tận dụng những ưu đãi xuất xứ thực hiện trong CPTPP dưới 7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Hiệp định đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực từ ngày 14 tháng 1 năm 2019 được kỳ vọng là bước ngoặt, tạo ra xung lực mới thúc đẩy hợp tác thương mại đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên.

Thực thi CPTPP đã đem lại tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng cho Việt Nam, là động lực mở rộng đường cho hàng hóa Việt sang các thị trường mới mẻ và tiềm năng trong Hiệp định. Đặc biệt, tham gia CPTPP, doanh nghiệp Việt Nam được hưởng mức cắt giảm thuế quan rất ưu đãi nhất là các mặt hàng có thế mạnh.

Tuy nhiên, ưu đãi thuế quan lớn cũng đi kèm với điều kiện về xuất xứ, yêu cầu về nguyên liệu sản phẩm nghiêm ngặt hơn khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn e ngại.

Sau hơn 3 năm thực thi, tỷ lệ tận dụng những ưu đãi xuất xứ thực hiện trong CPTPP còn chưa cao ở một số nhóm ngành hàng trọng điểm. Điều này, khiến doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng hết tiềm năng lợi thế trong thời kỳ “một mình một chợ” khi thực thi CPTPP.

Điều gì khiến doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng hết cơ hội ưu đãi thuế quan từ CPTPP?  Và làm thế nào để nâng cao tỷ lệ tận dụng ưu đãi xuất xứ trong CPTPP? Nội dung này được các đại biểu đưa ra bàn luận tại Tọa đàm Gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của doanh nghiệp Việt Nam trong CPTPP do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 01/12 tại Hà Nội.

Ông Ngô Chung Khanh, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại Đa biên (Bộ Công thương)

Ông Ngô Chung Khanh, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại Đa biên (Bộ Công thương) cho biết: "Sau gần 4 năm thực thi CPTPP, nhận thức và hiểu biết của các doanh nghiệp về FTA nói chung và hiệp định CPTPP nói riêng đã cải thiện đáng kể. Tỉ lệ các doanh nghiệp hiểu về Hiệp định CPTPP hay hiểu rõ về Hiệp định CPTPP đã tăng trưởng rất mạnh"

Kết quả khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, tỷ lệ các doanh nghiệp hiểu về CPTPP chỉ ở mức 2% vào năm 2020 thì nay tăng lên 9%. Hai là kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường CPTPP chưa từng có FTA trước đó, là Canada, Mexico, Peru, ghi nhận tăng trưởng rất mạnh, xuất siêu lớn.

Cụ thể, thặng dư thương mại từ riêng Canada và Mexico rất đáng kể. Năm 2019, xuất siêu sang 2 thị trường này lên tới 8,5 tỷ USD, điều đó cho thấy rằng nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng đã để ý xuất khẩu sang các thị trường mới.

"Tuy nhiên, nếu đi sâu hơn thì còn một số điểm chúng ta có thể làm tốt hơn. Đầu tiên, mặc dù chúng ta xuất khẩu sang Canada, Mexico tăng giá trị nhưng tỷ trọng của hai thị trường này còn tương đối khiêm tốn. Vấn đề thứ hai là ở những mặt hàng chúng ta có tỷ lệ tận dụng tốt thì giá trị lại khiêm tốn. Đây là những điểm chúng ta cần chú ý tập trung cải thiện hơn trong thời gian tới", ông Ngô Chung Khanh chia sẻ.

Bà Đỗ Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương)

Còn theo bà Đỗ Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), khá nhiều nhóm hàng có tỷ lệ sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) ưu đãi CPTPP cao chứ không phải nhóm hàng nào cũng thấp.

"Nếu nhìn con số về tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi trong CPTPP ở mức 6,7%, đứng về con số tuyệt đối nghe có vẻ thấp, nhưng thực tế con số này tính trên tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra toàn bộ khối gồm 11 nước thành viên và trong đó mới có 6 nước thành viên đã thực thi CPTPP tính đến thời điểm khoảng từ tháng 8/2021 trở về trước. Nếu chỉ tính trên trên sáu nước này thôi, tỷ lệ sẽ cao hơn chứ không phải là 6,7%", bà Hương nhận định.

Đứng về góc độ mặt hàng, nếu tính trên tổng thể chung của khối CPTPP bao gồm những nước đã thực thi và những nước chưa thực thi hiệp định, tỷ lệ những nhóm hàng chúng ta sử dụng tốt là giày dép chiếm khoảng 43%, xơ sợi cũng khoảng 33%, sắt thép và các sản phẩm sắt, thép 76%, điện thoại và linh kiện điện thoại là 13% và thủy sản là 6%.

Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty May Hưng Yên (Hugaco)

Nhìn nhận ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty May Hưng Yên (Hugaco) cho biết, đối với ngành dệt may, trong ba năm thực thi CPTPP thì tỷ lệ mà xin chứng nhận xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan rất thấp.

Bởi vì trong số mà 7 nước đã ký CPTPP thì Việt Nam hầu như đã có hiệp định song phương hoặc đa phương, ví dụ như Nhật Bản, New Zealand đã có song phương hết rồi, gần như doanh nghiệp đã tận dụng ưu đãi thuế quan từ trước.

"Đơn cử, FTA giữa Việt Nam - Nhật Bản thì điều kiện để hưởng thuế suất 0% còn dễ thở hơn so với CPTPP, đó là lý do giải thích cho việc tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan trong CPTPP mới ở mức gần 7%. Quy tắc xuất xứ từ sợi trở đi trong CPTPP thực sự không dễ đáp ứng với ngành dệt may, đó là lý do tận dụng ưu đãi thuế quan trong CPTPP với May Hưng Yên và các doanh nghiệp khác trong ngành chưa cao", ông Nguyễn Xuân Dương bày tỏ.

Ông Nguyễn Xuân Dương cho rằng, về thuận lợi, thị trường thế giới đánh giá hàng Việt đẹp, chất lượng tốt, chỉ có điều về giá cả cần cạnh tranh hơn.

Về thuận lợi, đánh giá của thị trường thế giới đánh giá rằng hàng Việt Nam được đẹp, chất lượng tốt, chỉ có điều về giá cả cần cạnh tranh hơn.

"Chúng ta có thuận lợi là khách hàng đánh giá rất cao về vấn đề năng lực, tay nghề của người lao động Việt Nam. Do vậy chúng tôi đánh giá thuận lợi thì có rồi, nhưng vấn đề muốn cạnh tranh được thì không có con đường nào khác là doanh nghiệp phải đầu tư, đổi mới làm thế nào có thể đưa được những công nghệ, quản trị công nghệ số và doanh nghiệp để tăng năng suất lên giảm những nhân công không cần thiết", ông Nguyễn Xuân Dương nhìn nhận.