Nước mắt ngày gặp mặt

Gỡ tờ lịch cuối cùng của tháng 3, bước sang tháng 4 năm 1975, tháng Tư kỳ diệu ấy đã đi vào lịch sử dân tộc như một điểm son sáng chói. Riêng với Đại tá, AHLLVTND Nguyễn Văn Tàu (bí danh Tư Cang), Chính uỷ Lữ đoàn 316 Đặc công - Biệt động, tháng 4 để lại nhiều ký ức, sâu tận tâm can.

 

Trong lúc đang dự khoá học bổ túc cán bộ cao cấp tại Học viện Chính trị của quân đội (xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, Hà Nội), Đại tá Nguyễn Văn Tàu nhận được lệnh trở về ền Nam. Ao ước được có mặt trong đoàn quân đi đầu vào Sài Gòn trở thành hiện thực. Niềm vui như vỡ oà.

Ngày 15/4/1975, ông rời Hà Nội, hoà vào dòng xe rộn rịp vào Nam trên Quốc lộ 1. Cảm xúc rộn ràng, khó tả.

“Có một chiếc xe con quân sự chở từ Đông Anh về tới Lộc Ninh (Bình Phước). Đi trên đường thấy đường sá, cầu cống bị bom Mỹ oanh tạc. Đi đến đâu trình phiếu xăng của Bộ Tổng Tham mưu cấp, nhận xăng dọc đường.”

Đại tá,  AHLLVTND Nguyễn Văn Tàu (bí danh Tư Cang)

[Xem thêm: Cung đường Thống nhất]

Lần thứ tư được hành quân dọc chiều dài đất nước, Đại tá Nguyễn Văn Tàu nói, nhìn làng mạc hai bên đường mới thấu hiểu ền Bắc đã vừa chịu đựng, vừa chắt chiu dồn hết sức người, sức của cho ền Nam.

Dòng hồi tưởng đưa ông trở về tháng 12 năm 1961, chàng trai 32 tuổi mang ba lô, súng đạn, gạo muối cùng đồng đội từ ền Bắc vượt vĩ tuyến 17. Đoàn quân băng rừng, vượt suối đi bộ theo đường mòn Hồ Chí Minh trên đỉnh Trường Sơn, đúng 100 ngày vào đến chiến khu D Biên Hoà, gia nhập quân giải phóng.

Ông chia sẻ, đoàn quân đi hàng dọc, từng người còn len lỏi qua bụi rậm, đám tre gai, lội suối, qua sườn núi chênh vênh, phải bám đá, bám rễ cây để khỏi rơi xuống vực.

“Đường rất gay go. Leo khổ lắm. Bám vào lá mà đi. Đi 3-4 tháng; có đoàn đi 5-6 tháng vì bom Mỹ rải. Anh em người ta nói, cứ đi 100 xe, thì còn 20 xe.

Nói chung là thiếu đói, thịt lún vào. Cứ sáng lên tới dốc, mở vắt cơm (nắm cơm) ra ăn với bình nước. Chiều xuống, canh sao đúng con suối,... Sáng mai lại vậy. Có ngày không thể dừng nấu cơm, phải mang theo 2-3 vắt cơm, treo lủng lẳng bên mình. Mà làm sao để cơm không thiu, tối ngủ để vắt cơm trên bụng, rồi trùm lại ngủ, phải có cơm mới đi nổi. Miền Bắc lúc đó tập trung tất cả cho ền Nam. Trong những ngày chuẩn bị “đi B”, gạo tám thơm ngon lắm...”

Cầu Rạch Chiếc xưa, nơi Lữ đoàn 316 Đặc công có trận đánh oai hùng để đón đoàn quân giải phóng tiến vào Sài Gòn. Ảnh tư liệu

Chuyến đi vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu, cũng là chuyến đi mang theo tâm trạng xốn xang của Đại tá tình báo Tư Cang khi được gặp lại vợ con sau đằng đẵng 28 năm.

Vào đúng đêm 30 tháng 4 năm 1975, ông trở về nhà lần đầu. Khi ông ra đi, con gái còn chưa chào đời. Mà nay, ngày toàn thắng trở về, con gái tên Nhồng đã 28 tuổi và cháu ngoại đã tuổi lên 3.

Ông Tư Cang họp cùng vợ, con gái, cháu ngoại sau ngày 30/4/1975. Ảnh Tư liệu

Trong cuốn hồi ký “Nước mắt ngày gặp mặt”, ông viết, “Tôi ôm lấy vợ tôi, đặt một cái hôn lên trán, một cái hôn nồng cháy sau gần 30 năm xa cách... Nhớ lại buổi tiễn biệt, cạnh bụi chuối sau nhà... Đêm nay, hạnh phúc đã đến thật sự trong vòng tay đây rồi mà tưởng như một giấc mơ... Sau phút giây đầu tiên, vợ tôi gỡ tay tôi ra, nhìn lên, mắt còn đẫm lệ....”

"Lấy nhau từ thuở đầu xanh/Anh mười tám, em mười bảy/Ôi! Cuộc sống yên lành đang chờ đợi/Nhớ chăng em? Những đêm thanh bình, trăng soi vời vợi/Hai đứa mình ngồi sát bên nhau/Nhìn trăng lên mà hy vọng cuộc đời/Sẽ êm ả, sẽ hiền hoà/Và vợ chồng ta sẽ bên nhau mãi mãi... Câu thơ đó của tôi nói rằng, có ai sinh ra mà muốn chinh chiến đâu!”

“Ngoài Sài Gòn và xung quanh Sài Gòn tiếng súng vẫn nổ rải rác. Chiếc đồng hồ treo tường chậm rãi điểm 12 tiếng. Sắp bước qua một ngày mới, một ngày của mùa Xuân huy hoàng đang đến trên đất nước đã chịu quá nhiều đau khổ này...”.

Bên cuốn hồi ký, vị Đại tá tình báo 97 tuổi rưng rưng nước mắt.

“Phải trung thành với Đảng, với Nhà nước. Nhận nhiệm vụ tình báo là coi như có thể chết rồi. Vì có thể bị bắt và hy sinh bất cứ lúc nào.”

Bên cuốn hồi ký, vị Đại tá tình báo 97 tuổi rưng rưng nước mắt.

50 năm đã trôi qua.

Nhưng âm thanh của bom đạn, của những mất mát, hy sinh vẫn còn vọng về trong ký ức của vị Cụm trưởng Cụm Tình báo H.63 - người đã đi qua hai cuộc chiến.

Đó không chỉ là nỗi nhớ về 52 đồng đội đã hy sinh quả cảm trong trận đánh ở cầu Rạch Chiếc những ngày cuối tháng 4/1975 để bảo vệ an toàn cây cầu huyết mạch, chào đón 2 cánh quân tiến vào trung tâm Sài Gòn;

Mà còn là niềm xúc động khi chứng kiến đất nước hồi sinh, sau những đau thương.

Ông Tư Cang hát: "Đây Bạch Đằng Giang sông hùng dũng/ của nòi giống Tiên Rồng,/Giống anh hùng,/Giống Lạc Hồng Nam Bắc Trung...”