Nghị định này sẽ “mở đường” để doanh nghiệp trong nước trực tiếp tham gia sâu vào công nghiệp đường sắt ra sao? Nó có ý nghĩa như thế nào trong việc triển khai các công trình trọng điểm, các dự án quan trọng thuộc lĩnh vực đường sắt trong thời gian tới?
Theo Nghị định 319, tổ chức, doanh nghiệp được xem xét khi đồng thời đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định về tư cách pháp lý hợp lệ; đảm bảo yêu cầu về năng lực vật chất và tài chính; đảm bảo yếu tố nhân lực; có cam kết bảo đảm hoàn thành việc tiếp nhận, làm chủ và vận hành công nghệ; có kinh nghiệm hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ.
Bên cạnh việc quy định tiêu chí, Nghị định 319 còn đề cập trình tự, thủ tục và thẩm quyền lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp nhận chuyển giao công nghệ. Do đó, theo PGS.TS Nguyễn Hồng Thái, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế – Vận tải Đường sắt Việt Nam, Nghị định này là bước cụ thể hóa các cơ chế, chính sách đặc thù, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho quá trình triển khai các dự án đường sắt trọng điểm, dự án quan trọng quốc gia trong thời gian tới:
“Nó thể hiện rõ bước thể chế hóa chủ trương của Quốc hội về phát triển khoa học công nghệ, làm chủ công nghệ, tăng tỷ lệ nội địa trong các dự án trọng điểm đặc biệt trong dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị. Đây cũng là lần đầu tiên, việc chuyển giao công nghệ không còn mang tính khuyến khích chung mà nó gắn với bộ tiêu chí bắt buộc, có quy trình đánh giá, có nghiệm thu rõ ràng”.
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân cũng cho rằng, Nghị định này là bước đi phù hợp với xu thế và có ý nghĩa đặc biệt trong việc tạo nền tảng phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước:
“Cơ chế đặc thù này hoàn toàn phù hợp nhằm huy động nguồn lực toàn dân, đặc biệt là nguồn lực tư nhân vào để hiện đại hóa ngành đường sắt. Nghị định này là quyết sách mang tính bước ngoặt để tạo điều kiện cho ngành đường sắt có thể phát huy được lợi thế, nguồn lực, tránh lãng phí nguồn lực giúp ngành đường sắt có thể đáp ứng được nhu cầu vận tải trong thời gian tới”.
Ông Chu Văn Tuân, Phó Ban Quản lý dự án đường sắt, Bộ Xây dựng thông tin, Nghị quyết của Quốc hội cho phép các đơn vị nhà thầu tư, vấn nước ngoài tham gia dự án sẽ liên danh với các đơn vị trong nước để người Việt có thể từng bước tiếp cận công nghệ mới, dần từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Việc cho phép lựa chọn doanh nghiệp được giao nhiệm vụ, hoặc được đặt hàng nhận chuyển giao công nghệ phục vụ các dự án đường sắt sẽ tạo thuận lợi cho việc triển khai các dự án đường sắt sau này:
“Đấy là những chủ trương của Đảng, của Quốc hội, của Chính phủ đã đề ra trong quá trình triển khai, không chỉ dự án Lào Cai – Hà Nội- Hải Phòng mà các dự án đường sắt trong thời gian tới và với những cái đặc thù về công nghệ mới mà chúng ta còn bỡ ngỡ như thế này thì việc triển khai dự án từ công tác lập, thẩm định, phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền, thì chúng tôi cho rằng đây cũng là một cái thách thức, không chỉ với ban đường sắt và với các cơ quan có liên quan tham gia vào cái dự án này”.
Bà Nguyễn Minh Thảo, Phó trưởng ban Phát triển doanh nghiệp và Môi trường kinh doanh, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính phân tích, trước đây, các dự án đầu tư công quy mô lớn thường phải trải qua nhiều khâu thủ tục, trong khi doanh nghiệp trong nước gặp bất lợi rõ rệt khi cạnh tranh với các nhà thầu nước ngoài.
Với cách tiếp cận mới qua Nghị định 319, Nhà nước đã thay đổi phương thức tham gia của khu vực tư nhân, tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước trực tiếp tham gia các dự án lớn. Qua đó, doanh nghiệp tư nhân có cơ hội tích lũy năng lực, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, từng bước làm chủ công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh, thay vì chỉ thực hiện các khâu có giá trị gia tăng thấp.
Bà Nguyễn Minh Thảo nêu đóng góp để thực thi có hiệu quả Nghị định này: “Các chủ đầu tư phải đưa ra các yêu cầu để nó phù hợp để các doanh nghiệp trong nước có khả năng đáp ứng các yêu cầu cụ thể đó. Nghị định 319 đang yêu cầu các tiêu chí tổng thể chung nhưng yêu cầu về nguồn lực tài chính, về khả năng huy động nguồn lực thì cần sớm được cụ thể hóa để các doanh nghiệp trong nước sớm có sự chuẩn bị và kịp thời đáp ứng các yêu cầu về chất lượng và tiến độ”.
Các chuyên gia kỳ vọng rằng, cách làm mới này không chỉ khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, áp dụng các giải pháp đặc thù cho các dự án quy mô lớn mà nó mở ra cơ hội để doanh nghiệp tư nhân trong nước cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI, tạo sức lan tỏa cho toàn bộ ngành công nghiệp đường sắt trong dài hạn.
Việc Chính phủ ban hành Nghị định 319 với bộ tiêu chí về lựa chọn doanh nghiệp tiếp nhận công nghệ đường sắt đánh dấu bước ngoặt chiến lược trong tư duy phát triển hạ tầng của Việt Nam, đó là chuyển từ nhập khẩu sang nội địa hóa từng phần, tiến tới làm chủ. Vấn đề tiếp theo sẽ nằm ở việc các doanh nghiệp Việt làm gì để đáp ứng được các tiêu chí đó.
Góc nhìn của VOV Giao thông qua bài bình luận: “Làm gì để “chinh phục" công nghiệp đường sắt?”
Các tính toán sơ bộ cho thấy, tổng quy mô đầu tư cho hệ thống đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam trong 20 năm tới lên tới 58-64 tỷ USD. Nếu cộng thêm nhu cầu từ đường sắt đô thị ở Hà Nội, TP.HCM và các đô thị loại 1 (khoảng 40 tỷ USD cho giai đoạn 2030-2050), Việt Nam đang đứng trước một ngành công nghiệp trị giá hơn 100 tỷ USD. Đây là thị trường mà doanh nghiệp Việt, nếu đáp ứng được các tiêu chí, có thể tham gia toàn diện chuỗi giá trị từ vật liệu, thiết bị đến thi công, vận hành và bảo trì.
Nghị định số 319 được ban hành trong bối cảnh cả nước đang triển khai các dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia lĩnh vực đường sắt, gồm: Dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và Hải Phòng - Móng Cái; dự án đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam; các dự án đường sắt đô thị tại Hà Nội, TPHCM.
Nghị định 319 được ví như “bộ lọc” khi đưa ra các quy định cụ thể tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được giao nhiệm vụ hoặc được đặt hàng nhận chuyển giao công nghệ phục vụ các dự án đường sắt giúp sàng lọc đúng các doanh nghiệp trong nước có năng lực thực chất, tránh tình trạng nhận chuyển giao hình thức và không làm chủ được công nghệ sau dự án.
Mặt khác, các tiêu chí trong Nghị định cũng tạo niềm tin và động lực cho doanh nghiệp trong nước đầu tư dài hạn vào công nghiệp đường sắt bởi họ biết chắc rằng, chỉ khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí thì mới được Nhà nước “đặt hàng”, từ đó hình thành các doanh nghiệp đủ lớn, đủ năng lực đảm đương những công trình trọng điểm.
Từ phía các doanh nghiệp trong nước, để tận dụng cơ hội mà Nghị định 319 mang lại, các doanh nghiệp cần chủ động đầu tư hạ tầng, chuẩn bị nguồn lực về vốn, về nhân lực, về công nghệ và sự hợp tác với các đối tác công nghệ nước ngoài để giúp cho doanh nghiệp đáp ứng được các tiêu chí mà Nghị định đề ra.
Chủ đầu tư các dự án đường sắt ngay từ đầu cũng cần xác định được nhu cầu công nghệ cần chuyển giao, coi đây là một tiêu chí quan trọng của dự án như tiến độ và giá thành. Để từ đó các doanh nghiệp xác định được hàm lượng công nghệ, mức độ chuyển giao công nghệ để triển khai cụ thể.
Việc Nghị định 319 cho phép chủ đầu tư đặt hàng doanh nghiệp Việt mang lại lợi ích kép: vừa giúp giảm phụ thuộc nhập khẩu, giảm chi phí dự án 10-20%, vừa tạo ra hàng trăm nghìn việc làm kỹ thuật cao. Tuy nhiên, cần có một khâu kiểm tra, đánh giá sau khi chuyển giao công nghệ.
Việc nghiệm thu, đánh giá phải gắn với khả năng vận hành, bảo trì, sản xuất, mở rộng công nghệ trong nước để đảm bảo chất lượng khi doanh nghiệp Việt làm chủ công nghệ đường sắt.
Giá trị của Nghị định 319 mang lại khi mở ra cơ hội hình thành và phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước không chỉ giúp các dự án đường sắt trọng điểm hoàn thiện về mặt hạ tầng mà còn nâng cao năng lực khoa học công nghệ, nâng tầm năng lực nội sinh nền công nghiệp chế tạo Việt Nam.