Hạ Mỗ: Giữ hồn quà quê giữa nhịp sống hiện đại

Giữa nhịp sống hiện đại, những giá trị truyền thống của làng quê Thăng Long – Hà Nội vẫn được gìn giữ qua từng nếp nghề, từng món quà quê mộc mạc.

Ở xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, bánh gio không chỉ là một thức quà dân dã, mà còn là ký ức, là hương vị kết tinh từ bàn tay khéo léo của người làm nghề.

Hãy cùng VOV Giao thông Quốc gia gặp gỡ anh Nguyễn Xuân Việt - chuyên viên Phòng Văn hóa - Xã hội xã Ô Diên, để lắng nghe những chia sẻ về điều làm nên nét riêng của bánh gio Hạ Mỗ, cũng như câu chuyện giữ nghề trong bối cảnh hiện nay.

PV: Theo anh, điều gì tạo nên sự khác biệt của bánh gio Hạ Mỗ so với bánh gio ở những địa phương khác - từ nguyên liệu, cách làm cho tới hương vị?

Anh Nguyễn Xuân Việt: Đây là món ăn truyền thống của làng Hạ Mỗ. Để sản xuất, ngay từ đầu Xuân các cụ phải kiếm nguyên vật liệu như: cây rau dền, đậu tương, rơm nếp, thầu dầu. Các cây đó sẽ được phơi khô đốt thành tro rồi ngâm với vôi trong sống cho nó sủi lên hoà tan nước tro đó.

Người ta lấy nước tro đó ngâm gạo và khi nào hạt gạo mềm thì mới đem ra gói. Bánh gio Hạ Mỗ chỉ gói to khoảng độ 3 đầu ngón tay, thuôn dài ra, khi bóc bánh ra, màu sắc đỏ tươi, trong suốt. Ăn không thì nhạt nhưng phải ăn cùng mật mía chưng lên với gừng, chấm để ăn. Mỗi dịp Tết, bất cứ nhà nào cũng phải có bánh gio dâng lên tổ tiên.

Bởi vì ở đây màu đỏ tượng trưng cho sự sung túc, thịnh vượng của người dân làng Hạ Mỗ cho nên không thể thiếu. Món bánh gio này ăn vào có tính chất tiêu hoá và giải rượu trong những ngày Tết.

Ảnh: Báo Lao động Thủ đô

PV: Trong bối cảnh nghề truyền thống đang đối mặt nhiều khó khăn, theo anh, làm thế nào để gìn giữ và đưa bánh gio Hạ Mỗ đến gần hơn với du khách và giới trẻ?

Anh Nguyễn Xuân Việt: Đối với nghề bánh gio giới thiệu với thực khách thì đầu tiên là phải công tác truyền thông. Trên địa bàn xã còn rất nhiều hộ gia đình làm bánh gio, nhưng đối tượng làm bánh gio thường là trung tuổi trở lên.

Thứ hai là công tác truyền dậy lại nghề bằng hình thức trực tiếp của hộ gia đình phải đặt lên hàng đầu. Kể cả kiếm nguyên liệu cũng khó khăn vì vùng này không trồng lúa nữa nên kiếm rơm nếp cũng khó khăn.

Nguyên liệu khác có thể thay thế như dùng vỏ cafe cũng có thể đốt ra làm được bánh gio, chúng ta cũng cần phải chuyển hoá theo thời cuộc hiện đại. Tuy nhiên, cũng không thể nào bỏ đi nét truyền thống là bắt buộc bánh gio phải làm từ nước gio chứ không thể thay thế bằng nước công nghiệp vào được.

PV: Từ câu chuyện của anh Nguyễn Xuân Việt có thể thấy rằng, bánh gio Hạ Mỗ không chỉ giữ lại hồn cốt của một làng nghề lâu đời, mà còn mở ra hướng đi mới khi được kết hợp với cách làm truyền thông, du lịch và sáng tạo của thế hệ trẻ.

Hy vọng rằng, với sự chung tay của chính quyền và người dân, món bánh quê xứ Đan Phượng sẽ tiếp tục lan tỏa và trở thành niềm tự hào của vùng đất Thăng Long – Hà Nội.