Trầm cảm – một căn bệnh không quá mới, cũng không quá cũ. Không phân biệt tuổi tác, giới tính, chủng tộc, hay tình trạng kinh tế xã hội, tất cả mọi người đều có thể bị trầm cảm. Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất, dù biểu hiện của các triệu chứng có thể khác nhau.
Theo dự báo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), đến năm 2020, trầm cảm là căn bệnh xếp thứ hai trong số những căn bệnh phổ biến toàn cầu với 121 triệu người mắc bệnh. WHO khuyến cáo việc ruồng bỏ, hay gạt sang bên lề người mắc trầm cảm là vấn đề lớn ngăn cản nhiều người tìm đến các dịch vụ giúp đỡ. Ngày Sức khỏe thế giới (7/4/2017) có chủ đề: “cùng trò chuyện về bệnh trầm cảm”.
Phóng viên đã có cuộc phỏng vấn với TS Tạ Thị Minh Tâm, một bác sỹ chuyên khoa tâm thần và chuyên gia trị liệu tâm lý lâm sàng, Chủ nhiệm trung tâm tư vấn tâm lý và chăm sóc sức khoẻ tinh thần cho cộng đồng người Việt Nam tại trường đại học Y Charité_Berlin, CH Liên bang Đức về Hội chứng trầm cảm và những vấn đề đặt ra với Việt Nam.

Tiến sĩ Tạ Thị Minh Tâm
PV: Xin chào TS Tạ Thị Minh Tâm, được biết ngày Sức khỏe thế giới 7/4 năm nay có chủ đề “Cùng trò chuyện về bệnh trầm cảm”. Theo chị, vì sao bệnh trầm cảm lại được cả thế giới quan tâm đến như vậy?
TS Tạ Thị Minh Tâm: Trầm cảm ngày càng trở nên phổ biến, dự đoán đến năm 2020 trầm cảm sẽ là nguyên nhân đứng thứ hai chỉ sau các bệnh về tim mạch. Bệnh trầm cảm không chỉ xuất hiện ở các nước phát triển mà ngay cả ở các nước đang phát triển tỷ lệ bệnh trầm cảm ngày càng cao.
Bệnh trầm cảm không chỉ ảnh hưởng tới sức khoẻ của người bệnh mà còn ảnh hưởng tới các mối quan hệ xã hội của người bệnh, gia đình người bệnh và xã hội. Ngoài ra, bệnh trầm cảm gây ảnh hưởng lớn về kinh tế bao gồm những thiệt hại kinh tế trực tiếp do kinh phí điều trị trực tiếp, nhưng thiệt hại kinh tế lớn hơn đó là những thiệt hại kinh tế gián tiếp do giảm thậm chí là mất khả năng lao động của người bệnh. Thiệt hại về kinh tế liên quan tới bệnh trầm cảm ở châu Âu năm 2010 lên tới trên 113 tỷ Euro bao gồm những thiệt hại kinh tế trực tiếp và gián tiếp.
Phải nói thêm là bệnh trầm cảm ảnh hưởng đến toàn bộ các hệ thống trên cơ thể như hệ thống miễn dịch, nội tiết, tuần hoàn và chuyển hoá chất, ví dụ bệnh nhân trầm cảm tăng nguy cơ các bệnh như tim mạch, cao huyết áp, mỡ máu….
Ngoài ra, nếu không có biện pháp điều trị đúng, kịp thời, trầm cảm có thể trở nên mãn tính với những thay đổi tính cách và có nhiều trường hợp bệnh nhân trầm cảm nặng có thể làm người bệnh có những suy nghĩ tiêu cực, chán sống thậm chí nặng hơn có thể có hành vi tự tử.
Điều đáng nói là hiện nay có rất nhiều biện pháp điều trị hiệu quả bệnh trầm cảm cũng như phòng ngừa bệnh trầm cảm. Tuy nhiên, do thiếu thông tin cũng như những định kiến và thiếu nhân lực dẫn đến tỷ lệ bệnh trầm cảm được điều trị đúng cách còn rất hạn chế, ở một số nước tỷ lệ này dừng lại ở con số khiêm tốn là 10%.
Phát hiện sớm và điều trị đúng cách hiệu quả là chìa khoá chữa khỏi bệnh trầm cảm. Chính vì thế, việc phát hiện và điều trị bệnh sớm cũng như phòng bệnh trầm cảm là mục tiêu quan trọng của WHO trong những năm gần đây.
PV: Là người nghiên cứu về tâm lý và có nhiều dự án về điều trị bệnh liên quan đến tâm lý, chị có thể cho biết một vài nguyên nhân khiến bệnh trầm cảm ngày càng gia tăng trên thế giới?
TS Tạ Thị Minh Tâm: Những năm gần đây, việc chẩn đoán cũng như những nghiên cứu về rối loạn tâm lý nói chung và trầm cảm nói riêng được quan tâm và đẩy mạnh hơn ở nhiều khu vực trên thế giới, chính vì vậy, việc phát hiện bệnh trầm cảm tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng bệnh trầm cảm có chiều hướng tăng lên, ngay cả ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở các vùng đô thị lớn, nơi mà tốc độ cuộc sống cũng như đòi hỏi công việc ngày càng cao.
Theo các nghiên cứu gần đây, một số yếu tố thuận lợi cho việc phát sinh bệnh trầm cảm phải kể đến là tăng stress trong công việc, tăng mật độ dân số với việc giảm không gian sống, tăng ô nhiễm nước, không khí, tiếng ồn, thiếu sự cân bằng giữa nghỉ ngơi và công việc, tăng sức ép về công việc, gia đình và xã hội, cũng như những khó khăn về tài chính.
Một số stress liên quan tới công việc như những thay đổi trong cấu trúc công việc, như tăng sức ép về tiến độ công việc, tăng giám sát trong công việc, môi trường làm việc không thân thiện…
Bên cạnh những yếu tố bên ngoài phải kể đến những yếu tố bên trong cũng có thể gây tăng nguy cơ trầm cảm: ví dụ các bệnh mãn tính (đau mãn tính, bệnh kéo dài…), các bệnh ung thư, những thay đổi nội tiết như trong thời kỳ tiền mãn kinh ở phụ nữ…
PV: Chị cũng có nhiều nghiên cứu và tham gia các dự án can thiệp với bệnh lý tâm thần trên bệnh nhân người Việt, theo chị, ở Việt Nam, hội chứng trầm cảm có phải là một nguy cơ và cũng sẽ gia tăng trong tương lai?
TS Tạ Thị Minh Tâm: Việt Nam là một nước đang phát triển với dân số trên 90 triệu dân, trong đó, theo số liệu thống kê mới nhất, khoảng 2,5% dân số Việt Nam tức là trên 2,2 triệu người đang chung sống với bệnh trầm cảm. Như vậy, bệnh trầm cảm không còn chỉ là nguy cơ mà đã là thực tế ở Việt Nam.
Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ và chuyển mình không ngừng, không chỉ về kinh tế mà cả xã hội, văn hoá, đặc biệt là ở khu vực đô thị. Những thay đổi về văn hoá xã hội, thay đổi trong gia đình, thay đổi về môi trường sống (ví dụ: kiến trúc, cấu trúc đô thị địa phương…), những thay đổi về cơ cấu lao động (từ làm ruộng sang làm các lĩnh vực dịch vụ, công nghiệp) và tổ chức công việc vừa là cơ hội cho người Việt Nam nhưng mặt khác đòi hỏi ở người đặc biệt ở vùng thành thị thêm những nỗ lực, năng lượng để thích ứng với điều kiện sống mới.
Chính những nỗ lực này kèm theo tăng những đòi hỏi sức ép trong công việc và cuộc sống, tài chính cũng như chênh lệch trong xã hội làm tăng nguy cơ phát sinh bệnh trầm cảm. Theo tôi trầm cảm và rối loạn liên quan tới stress sẽ là một chủ đề quan trọng ở Việt Nam trong những năm sắp tới.
PV: Vậy nhưng không nhiều người Việt Nam hiểu về hội chứng trầm cảm, và ngay cả các bệnh viện thì việc khám, phát hiện và điều trị bệnh trầm cảm cũng chưa thực sự được quan tâm, theo chị, nguyên nhân do đâu?
TS Tạ Thị Minh Tâm: Trong khi những bệnh lý nội ngoại khác có những triệu chứng biểu hiện rõ rệt, ảnh hưởng ngay lập tức tới cuộc sống của người bệnh khiến bệnh nhân phải đi khám ngay, ví dụ gãy xương, đau đớn cấp tính, viêm phế quản với ho…, bệnh trầm cảm phần lớn tiến triển từ từ, đa phần người bệnh không phát hiện ngay được.
Những triệu chứng tiền triệu có thể đơn giản là mệt mỏi hơn so với bình thường, đặc biệt mệt mỏi, uể oải vào buổi sáng, giảm hứng thú trong công việc và gia đình, hay nghĩ ngợi nhiều hơn, cả nghĩ hơn, nhiều suy nghĩ tiêu cực, mất tập chung, hay quên, tự ti hơn, hay nóng tính hơn, cáu kỉnh hơn, mất bình tĩnh trong công việc, hay lo lắng hơn, không muốn gặp ai, mau nước mắt hơn, hay mất ngủ hoặc giảm chất lượng giấc ngủ, đau đầu…, Nhiều các biểu hiện này kéo dài liên tục trên hai tuần có thể là biểu hiện của bệnh trầm cảm.
Nhưng những triệu chứng này nhiều người Việt vẫn cho rằng do thay đổi thời tiết hay do các yếu tố khách quan hay những bệnh như rối loạn thần kinh thực vật, phong thấp, thiểu năng tuần hoàn não mà chưa coi đó có thể là dấu hiệu của bệnh trầm cảm.
Người dân có ít các thông tin về bệnh trầm cảm cũng như các phương pháp điều trị bệnh trầm cảm hiện đại, nên việc đi đến khám tại các trung tâm và bệnh viện khi có những biểu hiện này còn hạn chế ở Việt Nam.
Không thể không kể đến những định kiến của người dân đối với ngành tâm thần và các các rối loạn tâm lý. Nhiều người cho rằng phải bệnh rất nặng thậm chí là “bị điên” thì mới phải đi khám bác sỹ tâm lý, tâm thần. Chính điều này cũng khiến cho người người bệnh “ngại” đi khám bác sỹ tâm lý, tâm thần.
Nhiều bệnh nhân trầm cảm đến trung tâm của chúng tôi tại trường ĐH Y Charité nói rằng họ khó có thể giải thích với người nhà tại sao họ phải đi điều trị tâm lý và dùng thuốc, vì ở bên ngoài khó ai có thể nhận ra là họ có bệnh. Có bệnh nhân tâm sự với tôi, bệnh trầm cảm như bệnh “giả vờ” vậy, chỉ người trong cuộc mới cảm nhận được những hạn chế nặng nề mà nó gây ra.
Thêm vào đó, bệnh trầm cảm ở mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá có một số những thay đổi trong cách biểu hiện bệnh. Như một nghiên cứu của trung tâm của chúng tôi tại trường ĐH Y Charité đã chỉ rằng bệnh nhân trầm cảm người Việt có nhiều triệu chứng trên cơ thể ví dụ đau đớn đặc biệt là đau đầu, đau lưng, đau khớp…hơn so với bệnh nhân Đức. Chính vì vậy việc chẩn đoán và nhận biết bệnh trầm cảm còn gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, không thể không nhắc đến việc hạn chế nhân sự trong ngành tâm thần cũng như trị liệu tâm lý tại Việt Nam. Theo số liệu năm 2011, số lượng bác sỹ tâm thần tại Việt Nam là 0,32 trên 100000 dân, so sánh với con số này ở Đức là 20 bác sĩ tâm thần, chúng ta thấy rõ sự hạn chế về nhân sự trong ngành tâm thần tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngành tâm thần cũng có những bước phát triển rõ rệt, số lượng các bác sỹ trẻ theo học ngành tâm thần tăng lên rõ rệt. Không chỉ vậy, việc đào tào nhân viên xã hội, chuyên gia tâm lý lâm sàng cũng được đẩy mạnh tại Việt Nam. Tôi nghĩ trong tương lai việc chẩn đoán và điều trị bệnh trầm cảm sẽ được quan tâm hơn ở Việt Nam.

Tiến sĩ Tạ Thị Minh Tâm và chồng
PV: Vậy theo chị, chúng ta phải làm gì để hạn chế sự gia tăng của bệnh trầm cảm?
TS Tạ Thị Minh Tâm: Trong ngành y nói chung cũng như ngành tâm thần và trị liệu tâm lý nói riêng, để hạn chế sự gia tăng của bệnh trầm cảm quan trọng nhất là khâu phòng bệnh, “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.
Để phòng bệnh hiệu quả, điều đầu tiên là người dân, đặc biệt là ở vùng thành thị, cần ý thức được những stress và sức ép trong công việc, gia đình và tài chính để từ đó tìm ra những biện pháp phù hợp với điều kiện thời gian và kinh tế của mình, để cân bằng, tái tạo sức lao động của mình.
Con người không phải là một cỗ máy, mà đến cỗ máy cũng cần được nghỉ ngơi, bảo trì, chính vì vậy, việc cân bằng giữa công việc và nghỉ ngơi là vô cùng quan trọng để giảm các nguy cơ phát sinh, các rối loạn tâm lý liên quan tới stress, trong đó có trầm cảm.
Các biện pháp giảm stress, tái tạo sức lao động, có thể đơn giản là tập thể dục thể thao, tập yoga, gặp gỡ bạn bè, tập tĩnh tâm hoặc học một môn nghệ thuật mới (vẽ, âm nhạc…)… Hay ở trung tâm chúng tôi, bệnh nhân được học thêm những kỹ năng trong giao tiếp xã hội hay cách phân tích tình huống để giảm tối đa nhưng mâu thuẫn không cần thiết trong công việc và gia đình.
Bên cạnh đó, nâng cao kiến thức và giảm định kiến của người dân về bệnh trầm cảm và các phương pháp điều trị bệnh trầm cảm là rất quan trọng, để bệnh có thể được phát hiện sớm và điều trị sớm. Càng điều trị sớm thì kết quả điều trị càng hiệu quả và giảm nguy cơ bệnh trầm cảm phát triển thành mãn tính.
Trầm cảm xuất hiện không chỉ ở nữ giới mà còn cả ở nam giới, mặc dù tỷ lệ bệnh trầm cảm ở nữ giới cao hơn nam giới.
Đồng thời nâng cao việc chẩn đoán, chất lượng khám chữa bệnh trong ngành tâm thần và trị liệu tâm lý cũng như trang bị kiến thức về các rối loạn tâm lý tâm thần và các biện pháp trị liệu cho các bác sỹ, kể cả các bác sỹ ở những chuyên ngành khác, sẽ góp phần phát hiện và điều trị sớm bệnh trầm cảm, từ đó giảm những hậu quả lâu dài do trầm cảm gây ra cho người bệnh, gia đình và xã hội. Trong điều trị trầm cảm, việc kết hợp giữa điều trị thuốc và trị liệu tâm lý là hiệu quả nhất.
PV: Với chị, chị sẽ tiếp tục các dự án nghiên cứu về tâm lý, trong đó có trầm cảm như thế nào, và trong tương lai chị sẽ tiếp tục hợp tác với các bác sỹ Việt Nam để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh trầm cảm và tâm lý ra sao?
TS Tạ Thị Minh Tâm: Cảm ơn anh về câu hỏi này. Trường ĐH Y Charité đã và đang có nhiều chương trình hợp tác trong nghiên cứu và giảng dạy với khoa tâm thần Học viện quân y 103 và trường ĐH Y Hà Nội.
Chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng nghiên cứu về đặc điểm bệnh trầm cảm ở người Việt, vì đây là yếu tố quan trọng để chẩn đoán và phát hiện sớm bệnh trầm cảm tại bệnh nhân Việt Nam. Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu về thái độ cũng như cách nhìn nhận của người Việt đối với bệnh trầm cảm và các phương pháp điều trị bệnh trầm cảm, để đưa ra được những thông tin về trầm cảm phù hợp với người Việt.
Đồng thời, chúng tôi cũng đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu về cơ chế và yếu tô di truyền của bệnh trầm cảm ở người Viêt Nam. Đặc biệt, hiện tại trung tâm và trường ĐH Y Charité chúng tôi đang nghiên cứu về một chương trình trị liệu tâm lý phù hợp với văn hoá và ngôn ngữ cho người Việt, cũng như phù hợp với điều kiện văn hoá xã hội tại Việt Nam.
Qua những chương trình trao đổi song phương, chúng tôi rất mong muốn góp phần trang bị cho các bác sỹ tâm thần và các chuyên gia tâm lý Việt Nam những kiến thức mới nhất trong phòng và điều trị bệnh trầm cảm, đặc biệt là các biện pháp trị liệu tâm lý không dùng thuốc. Chúng tôi cũng muốn hợp tác với các bác sỹ ngành tâm thần Việt Nam để giảm bớt những định kiến của người dân về ngành tâm thần nói chung và bệnh trầm cảm nói riêng.
PV: Xin cảm ơn chị!