Bởi vậy, việc ban hành bộ chỉ tiêu này của Bộ Xây dựng, nhiều ý kiến cho rằng, thực sự không cần thiết.
Trong nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý và quản lý lĩnh vực vận tải hành khách cố định, việc Bộ Xây dựng ban hành khung quy định kinh tế - kỹ thuật của phương tiện sẽ góp phần làm rõ các yếu tố cấu thành giá cước, tạo cơ sở cho việc xây dựng giá vé hợp lý hơn, phù hợp với đặc điểm từng loại phương tiện, quãng đường vận chuyển và dịch vụ cung cấp.
Về mặt tích cực, việc đưa đặc tính kinh tế - kỹ thuật của phương tiện vào tính cước, trong đó có tham chiếu đến hệ số tiêu hao nhiên liệu, số chỗ ngồi, khấu hao phương tiện, thời gian khai thác…, các doanh nghiệp sẽ có động lực đổi mới đội xe, nâng cao chất lượng dịch vụ. Điều này cũng đặc biệt hữu ích đối với cơ quan quản lý nhà nước khi cần kiểm soát những biểu hiện bất thường trong việc kê khai hoặc điều chỉnh giá cước, nhất là thời điểm cao điểm lễ, tết. Về phía hành khách, sẽ là đối tượng hưởng lợi khi được tiếp cận với dịch vụ vận tải chất lượng hơn, nh bạch về giá cả và chi phí cấu thành.
Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra nhiều băn khoăn về tính cấp thiết và hiệu quả thực tế trong môi trường kinh doanh vận tải đang vận hành theo cơ chế thị trường. Bởi, nhìn từ thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp vận tải hiện nay, quy định này không mang tính đột phá hay mới mẻ, vì các doanh nghiệp vận tải đã chủ động tính toán chi phí dựa trên đặc điểm phương tiện, từ mức tiêu hao nhiên liệu, khấu hao xe, chi phí bảo dưỡng đến khả năng chuyên chở. Đây là điều mà thị trường buộc họ phải làm để tồn tại và phát triển. Do đó, việc đưa thêm một quy định hành chính để “hợp pháp hóa” điều doanh nghiệp vốn đã thực hiện sẽ tạo cảm giác rườm rà và mang tính hình thức hơn là giải pháp hiệu quả.
Quan trọng hơn, giá cước vận tải hành khách hiện nay chịu tác động chủ yếu từ cung - cầu của thị trường, đặc biệt trong các tuyến vận tải cạnh tranh cao hoặc trong thời điểm lễ Tết, mùa du lịch. Người tiêu dùng lựa chọn dịch vụ không chỉ dựa trên giá vé mà còn dựa vào chất lượng phục vụ, thời gian hành trình và uy tín của nhà xe. Trong bối cảnh đó, các yếu tố kinh tế - kỹ thuật của phương tiện thực tế chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong quyết định cuối cùng về giá cước. Việc chốt cứng các chỉ tiêu này vào văn bản quy phạm pháp luật có thể vô tình khiến khung giá vận tải trở nên kém linh hoạt, không phản ánh đúng quy luật vận hành của thị trường.
Một điểm cần lưu ý nữa là: cơ chế giá trần - giá sàn trong vận tải hành khách tuyến cố định đã dần bị loại bỏ để nhường chỗ cho cạnh tranh công khai, nh bạch. Nếu tiếp tục can thiệp quá sâu vào phương pháp tính giá của doanh nghiệp, thậm chí là chi tiết đến từng hệ số kỹ thuật, vô hình trung, Nhà nước đang quay lại cách điều tiết cũ – đi ngược với tinh thần cải cách và hội nhập thị trường.
Đó là chưa kể, việc ban hành khung quy định cứng cũng không phù hợp với tinh thần Nghị quyết 68, tạo điều kiện thuận lợi nhất để khơi thông mọi nguồn lực phát triển kinh tế tư nhân, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Từ góc độ quản lý nhà nước, điều cần làm không phải là quy định chi tiết các hệ số kinh tế - kỹ thuật để tính giá cước, mà là xây dựng một khung pháp lý linh hoạt, cho phép doanh nghiệp tự chủ về giá, đồng thời có công cụ kiểm soát các hành vi bất hợp lý hoặc lạm dụng vị thế để trục lợi.
Ngay cả vào những dịp lễ, Tết – thời điểm giá cước vận tải có thể có biến động, cơ quan quản lý cũng hoàn toàn có thể yêu cầu doanh nghiệp kê khai giá vé một cách nh bạch, tăng cường hậu kiểm thay vì áp đặt phương pháp tính cụ thể. Hệ thống công nghệ số hoàn toàn có thể hỗ trợ cơ quan quản lý trong việc giám sát biểu đồ giá cước, phát hiện bất thường để xử lý kịp thời mà không cần quy định quá chi tiết về từng chi phí đầu vào.
Tóm lại, quy định về chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của phương tiện trong tính giá cước vận tải hành khách, dù có dụng ý tích cực, nhưng về cơ bản không thực sự cần thiết, và vì vậy khó phát huy hiệu quả trong môi trường kinh doanh vận tải đã và đang được thị trường hóa mạnh mẽ.
Bởi vậy, thay vì ban hành thêm các quy định mang tính hình thức, cơ quan quản lý cần hướng tới việc tạo hành lang pháp lý thông thoáng, nh bạch và công bằng, trong đó vai trò của doanh nghiệp và người tiêu dùng được đặt đúng vị trí trung tâm. Như vậy, thị trường vận tải mới có thể phát triển lành mạnh, cạnh tranh đúng nghĩa và phục vụ người dân một cách hiệu quả hơn./.