Ngoài việc khẳng định quyền độc lập của dân tộc, bản Tuyên ngôn độc lập còn thể hiện các giá trị pháp lý và nhân văn ra sao?
Chương trình tọa đàm phát thanh trực tiếp lúc 12h30-13h30 thứ Năm, ngày 14/08/2025 trên tần số FM91 của Kênh VOV Giao thông Hà Nội và TP. HCM, với chủ đề: “Giá trị pháp lý và nhân văn của bản Tuyên ngôn Độc lập”.
Các vị khách mời tham gia chương trình: PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và PGS.TS Đinh Ngọc Vượng, Chuyên gia Luật Quốc tế, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập - Bản tuyên ngôn của nhân quyền
Hàng năm, cứ mỗi dịp Quốc khánh 2/9, Nguyễn Mai Trang, sinh viên Học viện Bưu chính Viễn thông lại háo hức chờ đợi để nghe lại Bản tuyên ngôn Độc lập được Bác Hồ đọc trước Quảng trường Ba Đình lịch sử.
Với Trang, mỗi lần nghe lại bản Tuyên ngôn Độc lập ấy là một lần cảm xúc dâng trào: "Khi được nghe cái đấy, mà do chính Bác Hồ nói nữa thì cảm xúc nó vỡ òa, mặc dù mình cũng chỉ được nghe phát lại thôi, thì cảm giác cũng vẫn là bồi hồi, xúc động và cảm thấy thật tự hào khi là con người Việt Nam."
Tự hào, xúc động cũng là cảm xúc của ông Đỗ Mạnh Khang (ở Lạc Đạo, Hưng Yên) mỗi khi âm thanh quen thuộc của bản Tuyên ngôn độc lập: "Việt Nam mình lúc ấy đang khó khăn, đói kém thì ai cũng ước nguyện thống nhất, độc lập, người dân làm chủ. Lúc bấy giờ người dân hào hứng, phấn khởi lắm. Nghe Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập thấm thía từng câu, từng chữ."
Với ông Mai Nguyên Hồng, một cán bộ công an về hưu ở Cầu Giấy, Hà Nội, bản Tuyên ngôn độc lập do Bác Hồ đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử có giá trị thời đại, không những khẳng định nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mà còn mở đầu cho làn sóng giành tự do, độc lập cho các nước thuộc địa: "Nó có giá trị thời đại rất lớn, bởi vì từ đó mở ra một làn sóng cho các dân tộc thuộc địa tự đứng lên giành lại độc lập cho đất nước mình, mà Việt Nam là ngọn cờ đầu tiên."
Năm nay bước sang tuổi 95, song thiếu tướng Võ Sở, nguyên Phó Tư lệnh Binh đoàn 12, vẫn nhớ như in ký ức về ngày 2/9/1945, thời khắc thiêng liêng khi đất nước bước sang trang sử mới: "Khi có thông báo Bác Hồ đọc tuyên ngôn Độc lập ở Quảng trường Ba Đình thì thanh niên chúng tôi đều có tinh thần sôi sục, đi đến từng làng xóm, kêu gọi bà con nghe đài phát thanh tuyên truyền. Khi được nghe, được biết như thế thì vui mừng đến mức độ là ôm nhau, rồi chạy khắp đường làng, ngõ xóm."
Thạc sĩ Đỗ Xuân Trường, Phó trưởng Phòng lịch sử cận đại VN, Viện Sử học, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội VN cũng khẳng định, bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là tuyên bố pháp lý về sự ra đời của một quốc gia độc lập, mà còn là bản tuyên ngôn nhân quyền - dân quyền mang tầm thời đại: "Ngay phần mở đầu Người đã trích dẫn hai văn kiện nổi tiếng nhất, đó là Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789. Việc trích dẫn này có ý nghĩa rất đặc biệt, mang tính đối thoại lịch sử, Người sử dụng chính những nguyên lý do các quốc gia phương Tây từng long trọng tuyên bố để chứng nh tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam".
GS. TSKH Vũ Minh Giang, Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cũng khẳng định, bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là tuyên bố chính thức của chính quyền cách mạng non trẻ Việt Nam lúc bấy giờ, đồng thời giải thích cho đồng bào và toàn dân về việc chúng ta đã giành được chính quyền, cũng như cách thức giành được độc lập: "Cái đó nó phù hợp với những giá trị cốt lõi nhất của nhân loại. Đó là giá trị nhân văn rất quan trọng, tức là đây không phải chỉ là câu chuyện của Việt Nam, mà là sự nghiệp cách mạng chính nghĩa, phù hợp với các giá trị phổ quát của nhân loại."
GS Vũ Minh Giang cũng cho hay, bản Tuyên ngôn Độc lập cũng thể hiện rõ, dân tộc Việt Nam đứng về phía Đồng mình, chống lại phát xít. Ngay trong bản Tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ cũng khẳng định: Một dân tộc gan góc đứng về phía Đồng nh mấy năm qua để chống phát xít, dân tộc ấy có quyền được tự do, độc lập.
Từ lời hiệu triệu của Tuyên ngôn, thắp lên ngọn lửa của sức mạnh nhân dân
Ông Nguyễn Tiến Năng, nguyên thư ký của thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi đó đang là một thanh niên hoạt động cách mạng tại Hoằng Hóa, Thanh Hóa kể lại không khí khi nhân dân nghe Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập qua loa phát thanh: "Nghe giọng của Bác Hồ, nhất là những câu mở đầu, người ta sinh ra có quyền… dân chúng nghe sướng lắm, lần đầu tiên được nghe nói tới độc lập. Điều cụ Hồ nói khiến mọi người như nuốt từng lời của Bác và hoan hô rầm rĩ."
Nhắc đến ngày 2/9/1945, ánh mắt Thiếu tướng Tô Đa Mạn, 94 tuổi, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần như bừng sáng lên. Ông kể, hồi đó đang là học sinh, nghe tin Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Hà Nội, niềm tự hào trào dâng, khát vọng về một cuộc sống tự do bùng lên mãnh liệt trong từng người dân: "Ngày 2/9/1945, Bác đọc Tuyên ngôn độc lập, nghe đến tinh thần, nghe đến Bác nói độc lập, tự do là quý lắm rồi. Có câu Bác nói xong mà bây giờ vẫn thấm thía ‘Đồng bào có nghe tôi nói rõ không’, ôi nghĩ mà chảy nước mắt."
GS.TS Phạm Hồng Tung, Nguyên Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội nhấn mạnh vai trò của Tuyên ngôn Độc lập, là động lực tinh thần mạnh mẽ cho nhân dân Việt Nam trong các giai đoạn bảo vệ và xây dựng đất nước: "Ngày 2/9/1945, nhân dân Thủ đô Hà Nội đã đại diện cho nhân dân cả nước tham dự và chứng kiến Lễ Tuyên ngôn độc lập, và tuyên thệ toàn dân Việt Nam sẵn sàng mang hết tính mạng và của cải để bảo vệ nền độc lập. Lời thề đó đã hành trình cùng dân tộc ta suốt thế kỷ 20 sang thế kỷ 21, hào khí và ý chí dân tộc đó vẫn tiếp sức cho chúng ta trong đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay."
Theo thạc sĩ Đỗ Xuân Trường, Phó trưởng Phòng lịch sử cận đại VN, Viện Sử học, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội VN, Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã tạo được sức mạnh tinh thần, tính pháp lý và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; trở thành lời thề độc lập của toàn dân tộc, khơi dậy ý chí đoàn kết “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”:
"Lời hiệu triệu ấy đã tác động rất mạnh đến tâm thức người Việt Nam lúc bấy giờ, từ ền núi đến đồng bằng, từ người dân thuộc mọi giai tầng của dân tộc, tôn giáo, tất cả đều cảm nhận được niềm tự hào, khát vọng tự do, sẵn sàng huy động sức người, sức của để bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Sức mạnh của nhân dân được khơi dậy sau lời hiệu triệu lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập."
Còn theo TS Phạm Thị Thuý Vân, Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, sau bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, sức mạnh của nhân dân tiếp tục được khơi dậy mạnh mẽ. Điều này được thể hiện rõ trên các phương diện như: Bản Tuyên ngôn đã khơi dậy khát vọng độc lập trong mỗi con người Việt Nam: "Khát vọng độc lập ấy không chỉ là giá trị thiêng liêng của mỗi dân tộc, mà nó còn là khát vọng trông sâu thẳm mỗi con người Việt Nam. Đây chính là động lực mạnh nhất mà bản Tuyên ngôn đã khơi dậy trọng nhân dân."
Các chuyên gia cũng cho rằng, nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện trí tuệ và bản lĩnh dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển hóa những nguyên tắc nhân quyền phổ quát thành ngôn ngữ của khát vọng độc lập dân tộc, để mỗi người dân – dù là nông dân, công nhân, trí thức – đều thấy mình là một phần của lời tuyên bố lịch sử.