Tuy nhiên để làm chủ được công nghệ, những kĩ sư Việt Nam không chỉ học hỏi từ các kĩ sư nước ngoài mà còn phải am hiểu địa chất, khí hậu từng vùng ền.
Trong đó, anh Bùi Hồng Đăng – kỹ sư phụ trách chính công trình hầm số 3 – Cao tốc Quảng Ngãi – Hoài Nhơn là một số những kỹ sư đầy sáng tạo đó, người đã khai sinh ra Công nghệ NATM – Hệ Đèo Cả. PV VOV Giao thông đã có cuộc trao đổi với anh xung quanh những khó khăn, thách thức để làm chủ công nghệ này.
PV: Những công nghệ nào đang được đơn vị áp dụng trong quá trình thi công hầm? Và làm thế nào để các kỹ sư Việt Nam có thể làm chủ và vận dụng hiệu quả công nghệ này trong điều kiện địa chất phức tạp tại Việt Nam?
Anh Bùi Hồng Đăng: Chúng tôi chính thức bước chân vào thi công hầm từ tháng 4/2016, tiêu biểu là hầm Cù Mông. Công nghệ NATM – Hệ Đèo Cả được manh nha từ giai đoạn đấy, nhưng để đưa ra được phương pháp đào mới chúng tôi phải trải nghiệm qua các hầm khác như: Hầm Hải Vân, Núi Vung, Thung Thi, hầm bao biển (Quảng Ninh).
Khi đến dự án Quảng Ngãi – Hoài Nhơn chúng tôi áp dụng trước ở hầm số 2 đặc biệt hiệu quả khi đào 700m hầm chỉ trong vòng 3 tháng, trong khi để đào theo công nghệ cũ phải mất 12 tháng.
PV: Trong quá trình học hỏi công nghệ đào hầm NATM của Áo, anh và các kỹ sư Việt Nam đã gặp phải những khó khăn nào? Điều gì đã giúp các anh vượt qua và làm chủ được công nghệ?
Anh Bùi Hồng Đăng: Chúng tôi học hỏi công nghệ này từ thời điểm làm hầm Hải Vân 1 chúng tôi làm với các kĩ sư nước ngoài, đặc biệt là công nghệ NATM người Nhật đang làm rất tốt.
Trong thời gian học công nghệ này chúng tôi gặp nhiều khó khăn, họ không dễ dàng truyền đạt cho mình, tuy nhiên, với tinh thần sáng tạo và ham học hỏi của người Việt trong quá trình làm chung với người Nhật, chúng tôi nhận thấy những quy trình, quy luật lặp đi lặp lại về địa chất và thi công. Từ đó rút ra phương pháp riêng, đó chính là công nghệ NATM - Hệ Đèo Cả mang đặc thù của người Việt Nam.
Hiện hầm số 3 đang áp dụng công nghệ này, nó ưu việt hơn so với NATM gốc. Theo công nghệ gốc thì chỉ với đá cấp 4 mới phun bê tông ngay nhưng với này bất kể loại đá nào chúng tôi cũng sẽ phun bêtông vào các vị trí ngay sau khi khai đào, giúp đưa các khối đá về trạng thái ổn định.
Vì vậy chúng tôi không bận tâm đá từ cấp 1 đến cấp 4, công nghệ của chúng tôi khắc phục được vấn đề này và không phụ thuộc vào địa chất. Nếu áp dụng NATM gốc phải đánh giá địa chất rồi mới làm gia cố được, mất nhiều thời gian hơn.
PV: So với việc thuê chuyên gia nước ngoài, việc triển khai thi công công nghệ này bởi kỹ sư trong nước mang lại lợi ích cụ thể gì cho dự án?
Anh Bùi Hồng Đăng: Chúng tôi cố gắng làm chủ trước hết là vì lòng tự tôn dân tộc, thứ hai là công nghệ của chúng ta mang lại hiệu quả rất lớn cho dự án. Từ việc chủ động về các kế hoạch huy động vật liệu, vật tư, tiến độ thi công được đẩy nhanh hơn và an toàn hơn.
Nếu thuê chuyên gia nước ngoài, chỉ riêng 1 giám đốc điều hành lương đã lên tới 35.000 USD ở thời điểm thi công hầm Hải Vân 1 và những vị trí chủ chốt khác từ 20-30 người nước ngoài - mức lương cũng từ 15.000-20.000 USD.
Trong đó chỉ có một số chuyên gia có năng lực, thậm chí có những người mới ra trường cũng hưởng mức lương đó, nhưng nếu người Việt làm thì chi phí rất rẻ.
PV: So với các hầm xuyên núi mà anh và đồng nghiệp từng tham gia, hầm số 3 có điểm gì khác biệt, cả về kỹ thuật và thách thức thi công?
Anh Bùi Hồng Đăng: Với hầm số 3 đia chất gần như sai khác hoàn toàn so với thiết kế, nếu nhà thầu sử dụng công nghệ NATM gốc phải đánh giá địa chất nên việc đào hầm sẽ rất lâu. T
uy nhiên, ở đây chúng tôi sử dụng công nghệ NATM – Hệ Đèo Cả nên đã khắc phục được mọi đới địa chất, thậm chí có thể đẩy nhanh tiến độ 9 tháng, trong khi nếu đào theo công nghệ cũ thì thời gian đào hầm phải lên tới 48 tháng, còn chúng tôi chỉ làm có 31 tháng.
Sau khi nổ mìn chúng tôi phun bêtông vào các vị trí ngay sau khi khai đào, đưa địa chất về trạng thái cân bằng mới, khắc phục được vấn đề thay đổi địa chất liên tục, sau đó mới tiến hành bốc xúc.
PV: Xin cảm ơn anh Bùi Hồng Đăng!