Để làm rõ hơn về tiến độ triển khai, những khó khăn thách thức và tầm quan trọng của dự án, VOV Giao thông quốc gia đã có cuộc trao đổi với ông Chu Văn Tuân, Phó Giám đốc Ban quản lý dự án đường sắt (Bộ Xây dựng).
PV: Thưa ông Chu Văn Tuân, xin ông cho biết công tác chuẩn bị triển khai dự án đường sắt tốc độ cao đến thời điểm hiện nay đang diễn ra như thế nào?
Ông Chu Văn Tuân: Ngay sau khi Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư dự án tại Nghị quyết 172, Chính phủ đã có những hành động quyết liệt. Trên cơ sở đề xuất của Ban quản lý dự án đường sắt, Bộ Xây dựng đã trình Chính phủ ban hành Nghị quyết 106 về kế hoạch triển khai Nghị quyết 172.
Song song đó, Nghị định 123 cũng được ban hành để tổ chức triển khai những cơ chế đặc thù. Đáng chú ý, cơ chế đặc thù này liên quan đến việc triển khai thiết kế kỹ thuật tổng thể lồng ghép trong thiết kế cơ sở. Luật Đường sắt sửa đổi lần này cũng đã cập nhật các chính sách đặc thù đặc biệt dành cho những dự án quan trọng quốc gia trong lĩnh vực đường sắt, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình triển khai dự án.
Về kế hoạch triển khai, Ban quản lý dự án hiện đang triển khai các gói thầu tư vấn để tổ chức lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Ban cũng đang phối hợp chặt chẽ với các địa phương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, xây dựng tái định cư, và di dời hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống lưới điện trên 110 kV.
Để tăng cường nguồn nhân lực trong nước am hiểu về đường sắt tốc độ cao, Bộ Xây dựng đã chỉ đạo Ban quản lý dự án đường sắt chủ động tìm kiếm và biên dịch các tiêu chuẩn về đường sắt tốc độ cao của các nước trên thế giới, phục vụ cho quá trình nghiên cứu và triển khai sắp tới.
PV: Trong quá trình chuẩn bị triển khai dự án lớn như vậy, đâu là những khó khăn lớn nhất mà chúng ta đang gặp phải, thưa ông?
Ông Chu Văn Tuân: Quá trình triển khai dự án, Ban quản lý dự án đường sắt nhận thấy một số khó khăn và thách thức rất lớn. Thứ nhất, đây là một dự án có quy mô rất lớn, có tính chất kỹ thuật phức tạp và tích hợp nhiều chuyên ngành, đòi hỏi sự phối hợp về góc độ kỹ thuật giữa nhiều bộ ngành có liên quan.
Thứ hai là thách thức về nguồn nhân lực. Dự án đòi hỏi một nguồn nhân lực chất lượng cao rất lớn để triển khai trong thời gian tới, đặc biệt là lực lượng tư vấn triển khai lập dự án. Thứ ba, đối với các địa phương, nhu cầu về quỹ đất cho dự án và nhu cầu tái định cư rất lớn và trải dài. Các địa phương đang gặp phải những khó khăn nhất định trong công tác rà soát, bởi vì tiêu chuẩn kỹ thuật của dự án rất ngặt nghèo, nên khả năng linh hoạt trong việc lựa chọn hướng tuyến là khó. Do đó, chúng ta sẽ phải chấp nhận một số công trình phải dành đất cho dự án.
PV: Vậy cụ thể thì công tác giải phóng mặt bằng hiện nay đang được các địa phương triển khai như thế nào để đáp ứng tiến độ gấp rút?
Ông Chu Văn Tuân: Chúng tôi nhận thấy các địa phương đã vào cuộc rất quyết liệt. Đến nay, các địa phương đã thành lập ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng. Các địa phương cũng đã triển khai khởi công xây dựng các khu tái định cư nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân bị ảnh hưởng. Đây là sự đồng hành rất quyết liệt bước đầu của các địa phương.
Tuy nhiên, các địa phương sẽ phải tiếp tục nỗ lực hơn nữa để đáp ứng được tiến độ công tác giải phóng mặt bằng của dự án, bởi theo Nghị quyết 106 của Chính phủ, tiến độ này là rất gấp. Chúng tôi sẽ phối hợp chặt chẽ với địa phương và đồng hành, để phục vụ tốt nhất mặt bằng cho dự án, đồng thời hạn chế tối đa ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
PV: Nếu dự án này được triển khai, nó sẽ tạo ra những thay đổi như thế nào cho mạng lưới giao thông vận tải quốc gia trong thời gian tới?
Ông Chu Văn Tuân: Việc triển khai dự án đường sắt tốc độ cao sẽ mang lại nhiều thay đổi quan trọng. Một là dự án sẽ hình thành phương thức vận tải mới, kết nối giữa hai cực tăng trưởng lớn nhất của cả nước là Hà Nội và TP.HCM. Đồng thời giúp tăng cường kết nối vùng ền và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ hai là tạo động lực phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ, cũng như các ngành dịch vụ có liên quan. Thứ ba, phát triển bền vững các loại hình vận tải, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng và hướng tới một phương thức vận tải xanh theo cam kết của Chính phủ tại hội nghị COP 26.
PV: Xin cảm ơn ông!