"Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Vương quốc Anh là một FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao, trong đó đưa ra rất nhiều các cam kết liên quan đến thương mại và phát triển bền vững. Có hẳn một chương riêng về thương mại và phát triển bền vững trong Hiệp định này", đây là chia sẻ của bà Nguyễn Sơn Trà, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương tại Tọa đàm ngày 11/12.
Bà Trà cho biết, bên cạnh những cam kết đã có ở trong khuôn khổ UKVFTA, Chính phủ Anh còn ban hành các chính sách thúc đẩy yếu tố thương mại và phát triển bền vững áp dụng với hàng hóa sản xuất tại Anh cũng như nhập khẩu từ các nước khác.
Ví dụ, quy định áp thuế đối với bao bì nhựa, nếu như sản xuất hoặc nhập khẩu thành phần đóng gói nhựa chứa ít hơn 30% nhựa tái chế. Hay quy định cấm đối với hàng hóa trong quá trình sản xuất có thể gây hại đối với tài nguyên rừng hoặc dẫn tới việc phá rừng. Những quy định như vậy ảnh hưởng rất nhiều tới việc xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Anh.
"Ví dụ thủy sản của chúng ta xuất khẩu sang thị trường UK, họ sẽ không chỉ quan tâm đến chất lượng thủy sản đó như thế nào, có dư lượng thuốc kháng sinh vượt quá mức cho phép hay không mà họ còn quan tâm đến truy xuất nguồn gốc hàng hóa, thủy sản đấy có phải được đánh bắt từ nguồn bất hợp pháp hay không", bà Trà cho biết.
Theo TS. Lê Huy Huấn, điều phối viên Chương trình Tăng trưởng Xanh và Biến đổi khí hậu toàn cầu, Việt Nam đã có sự chuẩn bị chủ động, tích cực và có những bước đi rõ nét để hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu về kinh tế xanh, thương mại xanh của thị trường xuất khẩu nói chung, cũng như thị trường Anh nói riêng.
Việt Nam đã và đang xây dựng nhiều chính sách hướng đến chuyển đổi xanh, phục vụ cho cả quá trình thương mại xanh. Ngoài ra, các chính sách liên quan đến hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, nhờ đó nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam được hưởng lợi từ các sáng kiến của quốc tế.
"Như dệt may, một trong lĩnh vực chịu áp lực rất lớn về việc phải giảm phát thải để đáp ứng các tiêu chuẩn các thị trường quốc tế, thì bằng sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhiều doanh nghiệp dệt may của chúng ta đã có sự chuyển đổi trong quy trình sản xuất và tạo ra sản phẩm như: sử dụng các loại vải tái chế, sợi vải tái chế, quá trình nhuộm dùng ít nước đi hoặc không dùng đến nước…. Đấy chính là nhờ vào sự hỗ trợ quốc tế", Huấn nêu ví dụ.
Nhìn nhận ở góc độ doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Huyền, CEO Công ty cổ phần Xuất khẩu quế hồi Việt Nam (Vinasamex) cho rằng, Anh là thị trường tiềm năng, tuy nhiên không phải dễ dàng để có thể đi vào.
Doanh nghiệp chuyển đổi theo mô hình phát triển bền vững, đặc biệt hướng tới những tiêu chuẩn cao sẽ dễ dàng tiếp cận khách hàng, có thể bán hàng với giá thành cao hơn. Tuy nhiên, có những thách thức và khó khăn khi phát triển theo mô hình phát triển xanh và phát triển bền vững.
"Chi phí cao đôi khi rất khó cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể đầu tư. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận được thông tin hay yêu cầu của thị trường. Ví dụ rất nhiều doanh nghiệp tạo ra một sản phẩm tốt và có thể kiểm soát được chất lượng, đảm bảo được truy xuất nguồn gốc hoặc nh bạch hóa về mặt quy trình, nhưng họ lại không biết rằng xin chứng nhận gì cho thị trường này hay tiếp cận như thế nào, marketing ra sao. Bị hạn chế về mặt thông tin chứ không phải rằng doanh nghiệp không sẵn sàng, có thể họ đã sẵn sàng nhưng chưa có đủ nguồn lực về mặt thông tin để xem sẽ bắt đầu từ đâu", bà Huyền nêu quan điểm.