Thoát nước ở nông thôn
Nếu cứ mỗi mùa mưa, nước lại đọng trong vườn, trong nhà mà không thể chảy đi đâu được, rồi nước thải cũng sẽ như vậy, thì dần dần sẽ tạo ra một sức ép rất lớn đến môi trường sinh sống ở vùng nông thôn của chúng ta.
Your browser does not support the playback of this video. Please try using a different browser.
Gần một nửa thời gian trong năm, các cánh đồng này ngập trắng trong nước với một “điểm nhấn” khác biệt, có lúa mùa nổi vươn lóng sinh sôi. Không mang vẻ đẹp “tuyệt phẩm giai nhân”, nhưng lúa mùa nổi vẫn óng ánh sắc vàng, kiên cường vươn lên mặt nước lũ. Khi giống lúa cao sản ngắn ngày phổ biến thì lúa mùa nổi trở nên lép vế. Nhưng cứ mỗi độ mùa nước về, nhìn đồng xưa, người ta lại nhớ về lúa mùa cũ.
Lạc vào lịch sử cây lúa nước, châu thổ Cửu Long ghi nhận một loại lúa có sức sống hầu như vô tận đó là cây lúa mùa nổi, cây lượng thực chủ lực của miền Nam trước năm 1975. Sách Tân Châu xuất bản năm 1966 của tác giả Nguyễn Văn Kiềm ghi lại, trước năm 1918, nông dân miền Tây chỉ biết làm ruộng cấy theo lối cổ truyền.
Đến mùa nước đổ, ruộng đồng ngập sâu, người dân mất mùa. Khi đó, ông Phan Văn Vàng, người buôn xứ Châu Đốc đã sang Cao Miên mua giống lúa mùa về bán lại cho nông dân trồng thử. Kết quả, mực nước trung bình từ 1m-3m thì cây lúa phát triển tốt. Lũ lên cao nhưng tốc độ chậm thì cây lúa vẫn theo kịp để thích nghi. Việc làm này đã tạo ra bước ngoặt “lịch sử” cho nền nông nghiệp lúa nước ở miền Nam, chuyển từ lúa cấy sang lúa sạ có đặc tính “nổi”, cho năng suất ổn định, góp phần quan trọng trong việc cung cấp lương thực cho cả miền.
Ông Lê Thanh Phong, Phó Viện trưởng Viện Biến đổi khí hậu - trường đại học An Giang cho biết “cấu tạo” cơ thể của lúa mùa nổi: “Bản chất đây là một loại lúa mùa, nhưng vươn mình được trong nước nổi, trổ ở giai đoạn tháng 10 âm lịch (đêm dài, ngày ngắn). Bản thân nó chứa một loại gen vươn lóng trong lũ, lũ cao đến đâu, lúa vươn đến đó và thích nghi tốt trong điều kiện lũ. Loại này trồng trong điều kiện đất cạn, vài tấc nước cũng phát triển nhưng cần phân bón. Còn trồng trong điều kiện lũ, vùng giáp với kênh rạch, đón được phù sa thì không cần phân bón và năng suất đạt được 3 tấn/hecta”.
Theo ông Lê Thanh Phong, lúa mùa nổi có tên khoa học là Floating Rice - loài lúa vượt lên mặt nước. Loại lúa này có nhiều giống khác nhau, từ: Nàng tây, Nàng đùm, Nàng son, Nàng rừng, Nàng phượt, Tàu binh, Chệt cụt… đến nếp Rằn và nếp Cô Ba. Từ xa xưa đến ngày nay, lúa mùa nổi được ca ngợi là giàu dinh dưỡng, sạch vì sống “thuận thiên”, không phân bón. Thời hoàng kim của lúa mùa nổi là từ năm 1920 đến năm 1960 với trên 500.000 hecta được trồng tại vùng Tứ giác Long Xuyên (gồm tỉnh An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ) và Đồng Tháp Mười (gồm Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An).
Cơ chế sinh học của cây lúa mùa nổi độc đáo ở điểm, lúa tự ngậm sương mà nẩy mầm, nước lên tới đâu lúa vươn lóng từ 5m-7m để đơm bông, kết hạt. Đầu tháng 3 âm lịch, dù có mưa hay không, nông dân vẫn cày đất, đem lúa giống sạ đều. Tháng 4 mưa xuống, hạt nảy mầm, lúa mạ xanh rì vươn mình khỏi đất. Đến tháng 5, nước sông đục ngầu do lũ, lúa mùa hưởng hết phù sa. Nông dân cứ để mặc cho lúa phát triển, khi lũ rút, thân lúa nằm rạp trên mặt ruộng, vô mùa thu hoạch là giáp Tết hằng năm.
Ông Nguyễn Hữu Ái, người gốc Cần Thơ đến xã Vĩnh Phước, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang trồng lúa mùa nổi kể lại: “Ngày xưa đất ở đây còn hoang dã nên chúng tôi đến đây lập nghiệp, 2001 lên đây ở là chọn cây lúa mùa nổi. Tháng 8 nước nổi, trồng lúa mùa, nước tới đâu lúa vươn tới đó. Mấy loại lúa Thần Thông vậy chứ sức sống vươn lên khỏi lũ thua xa lúa mùa nổi. Cái được nhất của nghề trồng lúa mùa nổi là thu hoạch xong cứ để đất nguyên vẹn mà sạ lại rẫy khoai mì. Đặc biệt trồng lúa này, đốt rơm làm phân hạ phèn cho đất, một lần đốt rơm tương đương với một kỳ rải phân”.
Gạo lúa mùa nổi có màu ửng đỏ, thân hình vừa vặn, không ngắn, không dài. Nước vo gạo có màu đỏ lợt, dùng rửa mặt giúp da mặt ít mụn, mịn màng. Còn nước cơm thì quậy đường uống thay cho sữa. Loại gạo này khô cứng nên khó đáp ứng thị hiếu tiêu dùng, nhưng để chế biến phở, bún, miến… thì cực kỳ phù hợp. Cơm lúa màu nổi khi ăn chung với khô sặc hoặc đậu phộng rang sẽ có cảm giác ngọt lừ cả miệng.
Ông Lê Thanh Phong, Phó Viện trưởng Viện Biến đổi khí hậu - trường đại học An Giang cho biết thêm: “Trong hạt gạo chứa đến 28% lượng tinh bột, người ta rất thích màu đỏ của hạt gạo vì đây là chất chống oxy hóa cho cơ thể con người. Người ta ăn để thực dưỡng”.
Đến năm 1978, lúa mùa nổi lâm cơn bĩ cực vì vướng trận lụt lớn, đã nhấn chìm toàn bộ ruộng đồng. Thiếu lương thực phải ăn độn bo bo, Nhà nước cho chủ trương bao đê, tăng vụ. Làm 2 vụ, rồi 3 vụ trong năm bằng giống cao sản, chẳng bao lâu đã cung cấp đủ lương thực cho quốc dân cả nước rồi tiến tới xuất khẩu. Cũng từ đó, nông dân ĐBSCL chọn trồng giống cao sản ngắn ngày, gạo dẻo thơm, năng suất 5-6 tấn/hecta. Cây lúa mùa nổi “ẩn mình” như một quy luật.
Cho đến năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị quyết số 120 Về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu đã giúp “hồi sinh” giống lúa mùa nổi. Năm 2020, Viện Biến đổi khí hậu - trường Đại học An Giang đã lập Dự án “Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển các giống lúa mùa phù hợp với môi trường ngập lũ ĐBSCL”.
Trong đó, bảo tồn thành công giống lúa mùa nổi. Viện cũng đang lai tạo giống lúa mùa nổi “phiên bản” mới để thỏa 2 điều kiện thị trường và môi trường. Theo quan điểm của Viện, phải “hồi sinh” và nhân rộng diện tích lúa mùa nổi để tạo không gian chứa lũ. Trong bối cảnh bao đê dày đặc hiện nay, những cánh đồng hằng chục năm không được xả lũ sẽ ngộ độc đất và khiến lúa thất mùa. Chính vì thế, có lúa mùa, chịu được thời gian dài, nhiều cánh đồng đón lũ để xả phèn. Đây là một trong những giải pháp sản xuất “thuận thiên”, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Về nhu cầu thị trường, cũng chính vì gạo lúa mùa nổi quá khô nên không được nhiều người tiêu dùng lựa chọn nhưng đổi lại đó là “gạo sạch”. Năng suất bình quân lúa nổi chỉ đạt 1,2 tấn/hecta, nhưng giá bán cao hơn gấp đôi các giống khác, ở vào khoảng 15.000 đồng/kg lúa và 100.000 đồng/kg gạo. Chính vì thế, Viện Biến đổi khí hậu - trường Đại học An Giang đang nỗ lực lai giống lúa mùa nổi mới, cho năng suất trên 3 tấn/hecta, thơm và mềm hơn giống thuần chủng.
Ông Lê Thanh Phong, Phó Viện trưởng Viện Biến đổi khí hậu - trường đại học An Giang cho biết: “Mình sử dụng giống lúa bản địa kết hợp với các giống thơm để lai tạo lại lúa mùa nổi theo hướng hiện đại, thiên về đặc tính thơm, mềm và dễ ăn hơn lúa mùa truyền thống. Đây là nhóm lúa trung bình, khi lai tạo giống mới thì chọn giống bố là hạt dài, giống mẹ là hạt trung bình. Khả năng kết quả sau này sẽ cho giống lúa mùa nổi mới hạt dài, thơm và dẻo”.
Việc “hồi sinh” hệ sinh thái lúa mùa nổi còn được xem là giải pháp nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường. Đồng thời, tạo sinh kế ổn định cho người dân mỗi mùa nước nổi.
"Đồng Tháp đánh giá lúa mùa nổi rất phù hợp cho huyện Tân Hồng để sản xuất vụ Thu Đông. Rất ít phân thuốc, kháng bệnh, vượt theo nước nên không sợ chìm"
"Ở vùng Tri Tôn thì người da bảo tồn giống lúa này với diện tích 200 hecta. Ở Chợ Mới thì duy trì 20 hecta, đây là những hộ dân ở Cồn Phước, truyền thống của họ là thích ăn gạo lúa mùa nổi nên duy trì trồng từ năm này qua năm khác"
"Chúng tôi tranh thủ mùa lũ bỏ không thì tiếc, nên cứ trồng lúa mùa, nuôi cá thêm trong ruộng để tìm sinh kế mùa lũ"
Trong khi kỷ niệm đẹp về lúa mùa nổi phần nhiều đã nhạt nhòa do sự thay thế của lúa ngắn ngày thì ở một số nơi, như: huyện Tri Tôn – An Giang và huyện Vĩnh Hưng – Long An, huyện Tân Hồng – Đồng Tháp… nông dân vẫn còn gắn bó với cây lúa này. Lúa thu hoạch được để dành chà gạo ăn trong nhà, chỉ dư đôi chút họ mới bán ra ngoài với sản lượng tầm 150 tấn/năm, xem như đây là cách nông dân lưu giữ món quà quý mà ông bà đã để lại.
Dòng đời lúa mùa nổi “đi vắt” qua 2 mùa mưa nắng, gói trọn vẹn đời sống văn hóa đồng bằng kể cả người Kinh và người Khmer Nam Bộ. Dù có bao năm tháng xa rời với mùi bùn, đồng rạ nhưng hình ảnh những mùa lúa nổi vẫn dịu dàng trôi qua miền nhớ. Cây lúa đã “tái sinh” nền nông nghiệp lúa nước ĐBSCL, cứu đói, thoát nghèo… đó là lúa mùa nổi!
Nếu cứ mỗi mùa mưa, nước lại đọng trong vườn, trong nhà mà không thể chảy đi đâu được, rồi nước thải cũng sẽ như vậy, thì dần dần sẽ tạo ra một sức ép rất lớn đến môi trường sinh sống ở vùng nông thôn của chúng ta.
Với tâm lý xe buýt là phương tiện hành khách công cộng được ưu tiên, nhiều tài xế đã cố tình vi phạm ATGT, ngang nhiên vượt đèn đỏ, đi ngược chiều, thậm chí chạy trên cả vỉa hè
Sau đợt tăng vọt lên sát mức đỉnh lịch sử, giá cà phê Việt Nam đang đứng trước đà giảm mạnh.
Hồ Hoàn Kiếm từ lâu vốn được ví như “trái tim của thủ đô”, là không gian văn hóa của Hà Nội và là nơi thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Thế nhưng thời gian qua, khu vực này lại liên tục được dùng để làm nơi tổ chức các hội chợ và sự kiện.
Thời gian qua, trên các tuyến cao tốc liên tiếp xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng, gây thiệt hại về người và tài sản. Điều này khiến dư luận đặt ra câu hỏi: Tại sao ngày càng có nhiều tuyến đường cao tốc được khánh thành với chất lượng tốt, nhưng tai nạn giao thông lại có xu hướng tăng cao?
Dạo gần đây, trên các phương tiện truyền thông hoặc thậm chí là một vài tác phẩm văn học, chúng ta thường thấy xuất hiện cách hành văn khá “kỳ lạ”, không theo chuẩn thông thường của tiếng Việt. Cách viết này được dùng khá phổ biến, đến mức được cho là chuyện bình thường và mặc nhiên coi lối viết đó là đúng.
Như VOV Giao thông đã đề cập, ùn tắc giao thông đang lấy đi khoảng 3% tổng thu nhập của các đô thị hàng đầu nước ta, gây thiệt hại hàng tỉ USD mỗi năm, gây tổn thất và lãng phí xã hội khổng lồ.