Sắp áp dụng chương trình dạy bơi an toàn trong nhà trường, cần lưu ý gì?

Nếu nhà trường bỏ ngân sách để làm bể bơi cũng hơi khó, đặc biệt là với các tỉnh miền núi vùng sâu, vùng xa. Chúng ta có thể dùng bể bơi dã chiến, xã hội hoá...

Trong gần 7 năm qua, tại Việt Nam có hơn 63.000 trẻ em được học bơi ễn phí và hơn 80.000 trẻ em được dạy kỹ năng an toàn trong môi trường nước thông qua Dự án có sự hỗ trợ của Quỹ Bloomberg Philanthropies. Việt Nam cũng đã tài liệu hoá những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng về dạy bơi an toàn thành một giáo trình.

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) đã ban hành Quyết định số 2993/QĐ-BGDĐT phê duyệt Chương trình và Tài liệu hướng dẫn dạy bơi an toàn cho học sinh và sẽ chính thức áp dụng trong thời gian tới.

Vậy làm thế nào để áp dụng một cách hiệu quả bộ tài liệu này?. PV VOV Giao thông đã có cuộc trao đổi với Ths. BS Đinh Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Bảo vệ và chăm sóc Trẻ em, Bộ Y tế xung quanh nội dung này

  

Học bơi không chỉ để phát triển tầm vóc mà còn là giải pháp phòng, chống đuối nước. (Ảnh:Hồng Lĩnh)

PV: Thưa ông, Việt Nam là một trong những điển hình tốt thực hiện việc giảm tỉ lệ đuối nước và có nhiều chương trình dạy bơi an toàn. Tuy nhiên, từ năm sau, nhà tài trợ sẽ rút khỏi Việt Nam.

Vậy ở góc độ Bộ Y tế, thời gian tới sẽ tiếp tục có những chính sách như thế nào để có thể tiếp tục duy trì và phát triển các chương trình dạy phòng chống đuối nước, dạy bơi an toàn và phòng chống đuối nước tại Việt Nam?

Bác sĩ Đinh Anh Tuấn: Những chương trình hợp tác quốc tế đã mang lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm hết sức là quý báu. Những can thiệp của chương trình có thể nói rất là hiệu quả. Tuy nhiên, bài toán đặt ra với tất cả các chương trình hợp tác quốc tế là làm thế nào đó để duy trì một cách bền vững thành quả đó và nhân rộng để bằng chính nội lực của trong nước. Đấy mới là điều quan trọng.  

Trong thời gian vừa qua, sự hỗ trợ của quỹ từ thiện Bloomberg, Việt Nam chúng ta đã triển khai Chương trình phòng chống đuối nước ở nhiều tỉnh thành phố và cũng đã mang lại những thành quả rất là tích cực giảm được tỉ lệ đuối nước ở những cái vùng can thiệp một cách rõ rệt. Điều quan trọng, với kinh nghiệm thu được từ chương trình, Việt Nam cũng đã xây dựng hệ thống chính sách để tăng cường việc phòng chống tai nạn thương tích nói chung và phòng chống đuối nước nói riêng ở trẻ em.

Đặc biệt, chúng ta tài liệu hóa những can thiệp của chương trình để có thể duy trì một cách bền vững bằng những nguồn lực thường xuyên của trung ương hỗ trợ cũng như nguồn lực địa phương. Thậm chí, đưa vào những chương trình giáo dục chính khóa hoặc ngoại khóa về dạy bơi an toàn, gọi là sinh tồn ở trong môi trường nước, đặc biệt là trong những trường hợp mà thiên tai thảm họa thường xuyên xảy ra ở đất nước chúng ta.

Những bài học đó chúng ta đã tài liệu hóa thành một tài liệu hướng dẫn quốc gia về dạy bơi an toàn và sinh tồn ở trong môi trường nước do Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt. Chương trình đó đã được phổ biến trên toàn quốc và sắp tới sẽ được ứng dụng ở trong các khóa đào tạo giáo dục thể chất chính khóa, ngoại khóa hoặc áp dụng ở trong những lớp dạy bơi ở trong cộng đồng để có thể tăng cường kỹ năng bơi sinh tồn ở trong môi trường nước và qua đó giúp giảm thiểu tỉ lệ trẻ em bị đuối nước hàng năm.

PV: Để quá trình thực thi bộ giáo trình này phát huy hiệu quả, theo ông các trường và địa phương cần có sự chuẩn bị như thế nào?

BS Đinh Anh Tuấn: Chúng ta đều biết rằng là để mà dạy bơi cho trẻ em thôi thì chúng ta phải có mấy yếu tố.

Thứ nhất là giáo trình. Giáo trình Trung ương đã biên soạn và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phê duyệt. Thứ hai là chúng ta phải có cơ sở hạ tầng (bể bơi). Trong khi  đó, số trường học có bể bơi ở Việt Nam còn ít.

Thứ ba nữa là chúng ta cũng phải có kinh phí để duy trì bể bơi đó. Bể bơi phải thay nước, phải vệ sinh. Chúng ta phải có kinh phí để duy trì. Và thứ tư, quan trọng nhất là chúng ta có đội ngũ thầy hay còn gọi là huấn luyện viên để dạy bơi. Dạy bơi không phải là dạy để biết bơi, để lấy giải mà còn phải dạy bơi để các em sinh tồn ở trong môi trường nước. Đây mới là điều quan trọng.

Còn bơi nhanh, bơi giỏi để lấy giải cũng là tốt nhưng mà chưa chắc đã sinh tồn được.

Đặc biệt là trong những tình huống, ví dụ như là thảm họa thiên tai hoặc là trong những tình huống chẳng may sảy chân xuống nước mất bình tĩnh thì có bơi giỏi đến mấy cũng vẫn chết đúng không? Rồi trong tình huống chúng ta phải cứu bạn, kỹ năng để mà cứu hộ? kỹ năng sơ cứu và hồi sức. Nnhững cái kỹ năng đó chúng ta phải dạy dỗ cho các em.

Muốn làm như vậy thì nguồn lực từ nhà trường là không đủ. Nhà trường có thế mạnh là gì? Là có đội ngũ thầy, cô giáo thể dục. Các thầy cô đều biết bơi cả. Bây giờ chỉ dạy các thầy cô, không chỉ dạy biết bơi mà còn dạy bơi an toàn. Phải đào tạo hộ đội ngũ huấn luyện viên dạy cứu hộ, cứu nạn.

Điều này không khó, chúng ta có giáo trình rồi, có thể mở lớp để đào tạo cho các thầy các cô. Nhưng cái quan trọng là bể bơi. Chúng ta có thể “xã hội hoá” bể bơi

Nếu nhà trường bỏ ngân sách ra để làm bể bơi cũng hơi khó, đặc biệt là với các tỉnh ền núi vùng sâu, vùng xa. Chúng ta có thể dùng bể bơi dã chiến, đầu tư không đáng bao nhiêu tiền cả, nhưng mà xã hội hoá, các bậc phụ huynh, ngân sách địa phương, ngân sách của xã, của tỉnh, rồi mọi người đóng góp.

Ảnh nh họa

Điều quan trọng nữa là duy trì bể bơi đó. Bể bơi thì phải vệ sinh, phải thay nước đúng. Để duy trì nó phải có kinh phí, xã hội hoá cũng rất quan trọng.

Ngoài ra cũng cần phải có kinh phí duy trì bể bơi, thông qua nguồn vốn xã hội hoá, đặc biệt từ nguồn ngân sách từ địa phương. Những địa phương nào mà có nhiều sông hồ, có nhiều thiên tai thì nên đầu tư vào bể bơi, duy trì bể bơi và các khoá dạy bơi, đầu tư các khoá dạy bơi an toàn

Như Thủ tướng đã nói, nguồn lực nhà nước có hạn nhưng nguồn lực từ nhân dân là vô hạn. Vấn đề là chúng ta phải có cơ chế, có chính sách để thu hút các nguồn lực đó để mà đầu tư vào những việc hết sức là xứng đáng.

Các cụ nhà ta có câu “Có phúc để con biết lội, có tội thì để con biết trèo.” Cha ông ta đã đánh giá rất cao kỹ năng bơi, vô cùng quan trọng. Thế nên là chúng ta phải phát huy truyền thống đó của dân tộc.

PV: Thưa ông, thời gian vừa qua, tại Việt Nam liên liên tiếp là xảy ra những trận lũ lụt. Đối với những địa phương mà thường xuyên xảy ra những yếu tố thời tiết cực đoan như vậy, cần có chú trọng đến vấn đề gì để có thể là hạn chế tình trạng đuối nước?

BS Đinh Anh Tuấn: Ngoài dạy bơi cho các con, dạy kỹ năng sinh tồn như môi trường nước và dạy kỹ năng cứu hộ cứu nạn thì có một việc cũng hết sức quan trọng đó là chúng ta phải dự phòng trước từ sớm, từ xa những thảm hoạ.

Trường học an toàn, môi trường an toàn và tất cả những nơi có nguy cơ xảy ra đuối nước thì người lớn phải phát hiện ra trước và lường trước được những nguy cơ đó để tránh xảy ra những thảm họa, những tình huống mà không đang có.

Ví dụ như có cháu bé 5 tuổi chết đuối trong chính bể nước của trường học, bể nước ngầm không được đậy nắp. Điều này cho thấy, trường học không an toàn.

Thứ hai, theo tôi, các nhà trường nên chủ động có sẵn những dụng cụ cứu hộ, cứu nạn. Chỉ cần lúc đó có một sợi dây thừng hoặc một can nhựa, các con có thể ném xuống để bạn bám vào, rồi kéo lên thì đã cứu được bạn. Còn nếu nhảy xuống cứu trực tiếp, rất dễ xảy ra thảm họa, không phải một mà có thể mất đến năm học sinh cùng lúc.

Chúng ta phải lường trước những nơi mà dễ có nguy cơ xảy ra thảm hoạ, tai nạn về đuối nước. Những ao hồ, hố trong những công trình xây dựng có nguy cơ xảy ra thảm họa tai nạn về đuối nước phải được rào lại, cắm biển cảnh báo và phải có người trông. Nếu không có người trông, cũng phải bố trí được những phương tiện cứu hộ để khi mà xảy ra vấn đề thì có thể có sẵn để ứng cứu.

PV: Vâng. Xin cảm ơn ông