Ngày Cách mạng tháng Tám thành công và Tuyên ngôn Độc lập vang lên từ Quảng trường Ba Đình lịch sử không chỉ khai sinh một quốc gia tự do, mà còn thắp lên ngọn lửa niềm tin, khát vọng và lòng tự hào bất diệt. Trong lời kể của các nhân chứng lịch sử hôm nay, cả một thời hoa lửa lại sống dậy - hào sảng, xúc động và đầy tự hào.
Mùa thu năm 1945. Khắp làng quê, phố thị, từ Hà Nội, Sài Gòn đến cố đô Huế hay vùng sông nước Tân Châu, tin Cách mạng thắng lợi lan nhanh khắp mọi ền, như một luồng gió mới thổi bừng ngọn lửa yêu nước trong lòng người dân Việt.
Từ các huyện xa, thuyền bè chở đầy người và cờ hoa dập dìu tiến về cố đô. Sông Hương, phố phường đỏ rực dòng người cuồn cuộn. Đại tá Hoàng Ngọc Thương, 98 tuổi, nguyên Phó đại đội trưởng Đại đội pháo binh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, khi ấy là một liên lạc viên trẻ của Việt Minh chưa đầy 20 tuổi. Vừa hoàn thành nhiệm vụ chuyển tài liệu xuống các huyện, ông hòa mình vào biển người đang hừng hực khí thế:
"Lúc đó, Bảo Đại đã giao lại ấn kiếm cho ông Tố Hữu và ông Tôn Quang Phiệt rồi. Tất cả dân Huế nổi lên, cờ hoa, thuyền bè, khí thế rất hùng dũng. Ông Tố Hữu lúc đó cũng xuống nói chuyện: Chúng ta không còn chờ trực và thơ mộng như ngày xưa thời Bảo Đại nữa, mà chúng ta đã lên một con đường mới là đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Thế là tất cả dân hoan hô. Cảm xúc lúc đó không thể tưởng tượng được. Ngay cả nữ sinh thường mặc áo dài, có người lấy hai vạt áo quấn buộc lại quanh người rồi nhảy múa. Còn nam giới thì cởi trần luôn: Chúng ta tiến lên! Tiến lên! Tiến lên! Quan lại của triều đình bắt đầu im lặng và quỳ gối".
Những tiếng hô ấy, những bước chân, những sắc cờ nối dài từ ngày 19/8 cho đến sáng 2/9/1945 - ngày lịch sử ở Quảng trường Ba Đình. Dưới bầu trời thu xanh ngắt, hàng chục vạn người từ khắp nơi đổ về. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc câu mở đầu Tuyên ngôn Độc lập: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”, không khí lặng đi trong giây lát rồi bùng nổ như sóng trào.
Đại tá, Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Tàu chưa bao giờ quên khoảnh khắc ấy: "Lúc đó, tinh thần phấn khởi cả nước. Bởi vì trước giờ đâu có tên Việt Nam trên bản đồ thế giới. Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do độc lập. Bài Quốc ca làm thanh niên tụi tôi nghe sôi nổi. Lần đầu tiên nghe Quốc ca chỉ muốn cầm vũ khí ra xa trường".
Ở một Ba Đình khác xa lễ đài, một xã vùng quê ở Thanh Hóa, ngày 2/9 được đón nhận bằng niềm vui đặc biệt. Ông Trịnh Xuân Đắc, 85 tuổi, người dân thôn Thượng Thọ, xã Ba Đình bồi hồi nhớ lại, tin độc lập đến cùng những lá cờ và lời kể về Quảng trường Ba Đình tràn ngập khí thế. Niềm vui ấy ngay lập tức biến thành hành động, cả làng hăng hái tham gia phong trào diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm:
"Quê hương Ba Đình trước đây là ba làng. Làng Mậu Thịnh chỉ biết là có rất nhiều khẩu hiệu, cờ, có những người diễn thuyết về Cách mạng tháng Tám, cuộc khởi nghĩa. Dân làng lúc ấy tiến hành xây dựng tổ đội để chống đói, góp ruộng để làm chung, phát động phong trào khai hoang phục hóa.
Về giặc dốt, mở rộng phong trào bình dân học vụ rất lớn. Cứ hàng tối mang đèn dầu đi học. Tất cả cụ già mà còn đi lại được đều tham gia học tập. Còn về phong trào diệt giặc ngoại xâm, thanh niên ở đây rất hăng hái tham gia chiến đấu. Phải nói là Ba Đình cũng là một trong những tấm gương mà theo tôi nhận xét thì nổi bật trong giai đoạn đó đối với huyện Nga Sơn".
Khí thế mới tiếp tục rộn rã trên mọi ền Tổ quốc sau buổi bình nh độc lập. Ở vùng sông nước Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang), chuẩn bị cho ngày Tổng tuyển cử, đội Thanh niên Tiền phong đã dựng hàng rào, đứng gác, trang trí cờ hoa và vận động bà con đến điểm bỏ phiếu.
Đại tá Đinh Văn Huệ, 98 tuổi, nguyên Trưởng Phòng Khoa học công nghệ và môi trường, Bộ Tham mưu Quân khu 7, nhớ lại ký ức về những chiếc ghe đầy cờ đỏ sao vàng cập bến liên tục, mang theo niềm tự hào chưa từng có của một dân tộc vừa giành lại chính quyền:
"Tôi 17 tuổi chưa biết gì về chính trị, nhưng tham gia cướp chính quyền. Được mấy anh, mấy chú đi trước hướng dẫn. Lúc bấy giờ sướng lắm, mình là một dân tộc được độc lập sau hơn 80 năm bị đô hộ. Ngày 6/1/1946, người đi xuồng, người đi bộ sớm lắm, không đợi tới 7h. Chúng tôi phải có mặt sớm để canh gác, giữ chỗ bỏ phiếu. Một số thanh niên Tiền phong chúng tôi đi trước, hô khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!”. Bà con đi vỗ tay. Có những người cầm cờ ở dưới xuồng, dưới ghe, tấp nập lắm".
Từ Quảng trường Ba Đình đến cầu Tràng Tiền, bến Tân Châu,… những câu chuyện ghép lại thành bức tranh tráng lệ về một dân tộc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Mỗi người, mỗi nơi, mỗi khoảnh khắc là một phần của mùa thu lịch sử, nơi ý chí và lòng dân hòa làm một.
Ngày 19/8 và 2/9/1945 không chỉ là những mốc son chói lọi trong sử sách, mà còn làm thay đổi vận mệnh hàng triệu con người. Đó là mùa thu mà dân tộc Việt Nam, sau hơn 8 thập kỷ nô lệ, đã ngẩng cao đầu trước thế giới, tự khẳng định quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Và hôm nay, khi mùa thu lại về, ký ức của những nhân chứng vẫn vang vọng như tiếng trống, tiếng hô từ tám mươi năm trước. Lời họ kể không chỉ để nhớ, mà còn để nhắc nhở các thế hệ hôm nay và mai sau: độc lập là thành quả của máu xương và ý chí, và trách nhiệm giữ gìn nó thuộc về tất cả chúng ta./.