Vậy cần làm gì để xây dựng mạng lưới cán bộ công tác xã hội đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội và phục vụ sự phát triển bền vững các chính sách an sinh?
Nghe nội dung chi tiết tại đây:
Những ngày cuối năm 2021 liên tiếp xảy ra các vụ việc nghiêm trọng liên quan đến xâm hại và bạo lực trẻ em trong gia đình như vụ bé gái bị đóng đinh vào đầu ở Thạch Thất, Hà Nội hay vụ bé gái 8 tuổi bị “dì ghẻ” bạo hành dẫn đến tử vong ở TP.HCM gây ra những bức xúc trong xã hội.
Số liệu thống kê của Bộ Công an cho thấy, năm 2021 có 1.914 vụ bạo hành, xâm hại trẻ em bị khởi tố, mặc dù số lượng có giảm so với năm 2020 nhưng lại diễn biến phức tạp và mức độ nghiêm trọng gia tăng tại một số địa phương.
Phân tích về nguyên nhân của tình trạng này, BS Nguyễn Trọng An, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo phát triển cộng đồng cho rằng là do thiếu đội ngũ cán bộ công tác xã hội về trẻ em ngay trong cộng đồng và gia đình để phát hiện sớm và ngăn ngừa các vụ bạo hành, xâm hại trẻ em:
"162.000 cộng tác viên bảo vệ trẻ em lồng ghép với công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã bị giải tán vào năm 2007. Chúng ta không có mạng lưới đội ngũ công tác xã hội về trẻ em".
Theo ông Đặng Hoa Nam, Cục trưởng Cục trẻ em, Bộ Lao động thương binh và xã hội, mặc dù các quy định pháp luật về bảo vệ trẻ em đã khá đẩy đủ nhưng lại thiếu nguồn nhân lực để thực thi các quy định đó. Hiện nay, nguồn nhân lực làm công tác bảo vệ trẻ em tuyến xã có nhưng không đảm bảo yêu cầu quy định pháp luật về bảo vệ trẻ em:
"Ở tuyến xã, chúng ta cũng có gần 11.000 cán bộ làm công tác trẻ em trong đó 853 cán bộ chuyên trách và hơn 10.000 cán bộ làm công tác kiêm nhiệm. Theo khảo sát những người làm công tác bảo vệ trẻ em đều là những người làm công chức lao động thương binh xã hội".
Cũng theo ông Nam, một công chức lao động thương binh xã hội phải triển khai 11 nhóm công việc quản lý Nhà nước của ngành thương binh xã hội cho nên khối lượng công việc quá nhiều, họ không đủ thời gian vật chất để giải quyết.
Mặt khác, năng lực cán bộ để giải quyết thông thạo các vấn đề trong đó có vấn đề trẻ em cũng còn nhiều hạn chế.
Một số chuyên gia cho biết, không chỉ cán bộ làm công tác trẻ em mà ngay cả đội ngũ công tác tham gia công tác xã hội nói chung tại Việt Nam còn thiếu. Cả nước có khoảng 22,5 triệu người cần trợ giúp trong đó, có trên 10 triệu người cao tuổi không có lương hưu; 7,6 triệu người khuyến tật; 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, 30.000 nạn nhân bạo hành gia đình, 2,9 triệu hộ nghèo và cận nghèo…Tuy nhiên, nguồn cung nhân lực làm công tác xã hội mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu.
TS Nguyễn Thị Vân, Phó Hiệu trưởng trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức công tác xã hội phân tích:
"Về số lượng cán bộ vẫn thiếu, thiếu rất nhiều so với nhu cầu. Theo đánh giá của Bộ Lao động và thương binh xã hội, nhu cầu trợ giúp xã hội của chúng ta hơn 1/4 dân số.
Đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội mới chỉ đáp ứng khoảng 20-30%".
Mạng lưới nhân lực công tác xã hội ở các địa phương còn mỏng, nhiều vị trí cần cung cấp dịch vụ công tác xã hội vẫn chưa có người thực hiện như vị trí việc làm của nhân viên công tác xã hội ở cấp xã và trong các lĩnh vực liên quan.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực làm công tác xã hội còn yếu về năng lực, chưa được đào tạo bài bản, chủ yếu hoạt động dựa trên kinh nghiệm nên chất lượng hoạt động còn thiếu chuyên nghiệp ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giải quyết các vấn đề xã hội, vấn đề của các cá nhân, gia đình.
PGS. TS. Nguyễn Thị Thái Lan, Trưởng Bộ môn Công tác Xã hội, Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cho biết, dựa trên đánh giá giữa kỳ của Bộ Lao động thương binh xã hội và đánh giá về nguồn nhân lực công tác xã hội có thể thấy:
"Có khoảng từ 50-80% các cán bộ đang tham gia vào hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp, CTV chưa qua đào tạo công tác xã hội.
Từ 10-30% là được đào tạo dài hạn về công tác xã hội và có khoảng 10-20% đào tạo ngắn hạn thông qua các khóa học từ 1 tuần, 1 tháng".
Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 32 dành kinh phí 2.347,4 tỉ đồng để thực hiện Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020. Bộ Lao động thương binh và xã hội và các bộ ngành, các địa phương đã thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực làm công tác xã hội như: phê duyệt các quyết định về đào tạo bồi dưỡng viên chức chuyên ngành công tác xã hội; chương trình bồi dưỡng cho các cộng tác viên ở cấp xã phường.
Đồng thời, Bộ cũng phối hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo phối hợp xây dựng và ban hành chương trình giáo trình hệ đào tạo ĐH, Thạc sỹ, tiến sĩ, các chương trình ngắn hạn chuyên sâu …
Để đảm bảo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao có chuyên môn, có trình độ đáp ứng mục tiêu và nhiệm vụ phát triển công tác xã hội theo Quyết định 112 của Thủ tướng Chính phủ, ông Trần Cảnh Tùng, trưởng phòng Công tác xã hội, Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động thương binh và xã hội đề xuất:
"Huy động nguồn lực tập trung đào tạo ngắn hạn chuyên sâu và đào tạo các cấp trình độ như trung cấp, ĐH, sau ĐH về công tác xã hội cho những cán bộ, nhất là những người vừa làm vừa học trong lĩnh vực có liên quan, hội đoàn thể có liên quan".
Cùng với đó, theo ông Tùng cần hoàn thiện giáo trình đào tạo của các hệ theo hướng hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên chuyên ngành về công tác xã hội, từng bước tăng cường chất lượng đào tạo nhân lực công tác xã hội ở các cấp.
Đội ngũ nhân lực làm công tác xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách về an sinh xã hội, cũng như trong việc phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn sớm những rủi ro, ảnh hưởng đến môi trường sống an toàn của người dân, những đối tượng đặc biệt.
Bởi vậy, việc xây dựng một mạng lưới cán bộ công tác xã hội ổn định từ cơ sở sẽ là điều cần thiết. Đây cũng là góc nhìn của Kênh VOV Giao thông: Mạng lưới nhân lực làm công tác xã hội, phải chắc từ cơ sở".
Trong khi tại nhiều quốc gia trên thế giới, công tác xã hội đã phát triển thành một nghề chuyên nghiệp thì tại Việt Nam, nghề này mới phát triển được khoảng 10 năm.
Đội ngũ nhân lực công tác xã hội tại Việt Nam không chỉ thiếu về số lượng mà còn yếu về chất lượng do phần lớn chưa được đào tạo bài bản, ảnh hưởng đến tính hiệu quả và bền vững của mạng lưới nhân lực công tác xã hội.
Hai năm qua, đại dịch covid 19 đã tác động nghiêm trọng đến kinh tế và đời sống xã hội. Chính phủ đã và sẽ ban hành nhiều chính sách an sinh xã hội nhằm hỗ trợ người dân, nhóm những người yếu thế. Mạng lưới cán bộ công tác xã hội cấp cơ sở sẽ góp phần không nhỏ đến sự thành công, hiệu quả của những chính sách này.
Vậy cần làm gì để khắc phục những bất cập hiện nay, xây dựng mạng lưới nhân lực công tác xã hội vững mạnh thời gian tới?
Thứ nhất, cần tăng cường số lượng nhân lực làm công tác xã hội. Các địa phương cần bám sát tinh thần Quyết định 112 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành chương trình phát triển công tác xã hội giai đoạn 2021-2030. Mục tiêu đến năm 2025, 60% số cơ quan, tổ chức, cơ sở trợ giúp xã hội phân công, bố trí nhân sự làm công tác xã hội,có ít nhất từ 01 đến 02 cán bộ, công chức, viên chức thuộc chức danh chuyên trách, không chuyên trách hoặc cộng tác viên công tác xã hội. Điều sẽ góp phần xây dựng một khung sườn chắc chắn của của mạng lưới công tác xã hội.
Hiện nay trong số 235 nghìn lao động làm công tác xã hội có khoảng 100 nghìn người làm việc tại các hội, đoàn thể các cấp như Hội phụ nữ, thanh niên, Hội chữ thập đỏ… Để tận dụng tối đa nguồn lực sẵn có và tận dụng kinh nghiệm, tránh làm xáo trộn về biên chế, tổ chức, Bộ Lao động và Thương binh xã hội xem xét có những điều chỉnh cơ sở pháp lý để có thể huy động, đào tạo, bồi dưỡng những người đang tham gia các hội đoàn, thể địa phương những kiến thức, kỹ năng về công tác xã hội.
Cùng với đó, chú trọng phát triển nhân lực công tác xã hội trong các bệnh viện trường học, hệ thống tư pháp, tòa án … tập trung phát triển các dịch vụ công tác xã hội cho người già, trẻ em, người khuyết tật …
Về nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ công tác xã hội, cần ưu tiên, nhanh chóng, đẩy mạnh hoạt động đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho những đối tượng đang làm công tác xã hội tại các địa phương, đặc biệt là ở cấp xã, phường.
Đồng thời, kiện toàn đội ngũ giúp sắp xếp lại vị trí công việc đúng người, đúng việc trong hệ thống một cách chuyên nghiệp, đảm bảo tính hiệu quả và đáp ứng được nhu cầu của xã hội; nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội.
Song song với đó, nâng cao chất lượng các giáo viên, giảng viên đào tạo lĩnh vực công tác xã hội; đổi mới, quốc tế hóa các chương trình đào tạo về lĩnh vực này, đáp ứng nguồn cung lao động ổn định và có chất lượng.
Để có thể giữ ổn định nguồn lao động làm công tác xã hội, Bộ Lao động và thương binh xã hội cũng cần xem xét có những cơ chế, chính sách quy định cụ thể các tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề và những quy định đảm bảo quyền lợi của người làm công tác xã hội.
Để phát triển mạng lưới nhân lực ngành công tác xã hội, ngoài đào tạo, đào tạo lại cho đội ngũ đang kiêm nhiệm, bổ sung các các bộ chuyên trách lĩnh vực này, cũng cần phát triển đa dạng và mạnh mẽ hơn nữa các dịch vụ an sinh, như các cơ sở chăm sóc, bảo trợ trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi.... (trong và ngoài hệ thống của nhà nước), từ đó mới kích thích nhu cầu của người học, tạo tiền đề thúc đẩy đào tạo nhân lực lĩnh vực này.
Nhưng điều quan trọng, người đứng đầu các địa phương phải thấy được tầm quan trọng của đội ngũ nhân lực này và bố trí nhân lực, thực hiện phân công công việc rõ ràng, cụ thể.
Có như vậy, mới có thể hình thành được đội ngũ làm công tác xã hội chuyên nghiệp, đáp ứng được nhu cầu phát triển xã hội phù hợp với xu thế quốc tế để từng bước nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ xã hội, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế - xã hội.