Đường tôi đi dài theo đất nước

Có những cuộc đời mang dấu ấn đặc biệt ngay từ giây phút đầu tiên, khi số phận cá nhân giao thoa cùng vận mệnh dân tộc. Năm 1945 – năm đất nước giành độc lập, cũng là năm bà Phạm Thị Sửu cất tiếng khóc chào đời.

Từ thuở thiếu nữ, bà đã sống trong không khí sục sôi của Sài Gòn, sớm tham gia phong trào cách mạng, góp phần vào hành trình đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc đời bà là sự tiếp nối mạch nguồn lịch sử, là nh chứng kiên trung của một thế hệ “khai sinh từ lịch sử”.

Tôi tìm đến nhà của bà Phạm Thị Sửu vào một buổi chiều nắng nhẹ. Nằm trong con phố nhỏ sầm uất ở phường Xóm Chiếu (TPHCM), bên trong ngôi nhà lại thật yên bình cùng với cách bày trí đồ đạc gọn gàng, tươm tất.

Cánh cửa ngả màu thời gian, những chậu cây trước sân vẫn xanh tốt như để bù lại những vết nhăn của tuổi già trong ngôi nhà ấy. Bước vào, tôi bắt gặp ngay nụ cười hiền từ của bà – người phụ nữ đã bước sang tuổi 80, dáng ngồi ung dung bên ấm trà, chờ tôi như chờ một người bạn đến nghe chuyện đời mình.

Bà Phạm Thị Sửu sinh năm 1945 – năm đất nước khai sinh nền độc lập. Có lẽ, cái duyên lịch sử ấy đã sớm định hình cuộc đời bà, gắn liền với một giai đoạn đầy biến động của dân tộc. Giờ đây, ngồi trước mặt tôi, bà với dáng hình mái tóc bạc phơ, làn da đã nhăn nheo theo năm tháng. Nhưng đôi mắt bà vẫn sáng, trí nhớ vẫn còn nh mẩn.

Mỗi lần kể chuyện, bà lại đưa ánh nhìn xa xăm như nhìn thấy rõ những ngày tháng đã đi qua. Khi nhắc đến tuổi trẻ, giọng bà trở nên chắc nịch, như tiếng trống dồn vang lên từ sâu thẳm tầng lớp trầm tích lặng lẽ. Tôi chợt nhận ra: trong con người nhỏ bé ấy là cả một kho tàng ký ức về một thời tuổi trẻ dấn thân, không ngại hiểm nguy.

Tuổi học trò của bà gắn liền với mái trường Trưng Vương ở Sài Gòn, nơi nuôi dưỡng nhiều tâm hồn yêu nước sớm thức tỉnh trước thực tại bất công. Không cam lòng trước cảnh áp bức, bà tham gia các phong trào đấu tranh phản đối chế độ thực dân và chính quyền tay sai.

Hình ảnh những nữ sinh khoác áo dài, tay cầm biểu ngữ, chân bước giữa lòng thành phố để cất lên tiếng nói của mình, từng là dấu ấn không thể quên trong dòng chảy đấu tranh đô thị. Chính khí chất ấy đã khiến bà được lực lượng cách mạng chú ý và mời tham gia vào mạng lưới giao liên bí mật.

"Thời đó nghe cách mạng hùng hôn và thiêng liêng lắm. Vì mình đang sống tròn chế độ bất công, mình nghe tiếng cách mạng, ai cũng như ai, đều có một hưng phấn trong người. Như là một tí xíu lửa nó được dịp nó cháy lên".

Bà được lực lượng kháng chiến cứu nước mời tham gia công tác giao liên – nhiệm vụ tưởng chừng đơn giản nhưng hiểm nguy luôn rình rập. Những chuyến đi âm thầm, những mảnh giấy, tin tức, tài liệu được giấu kín trong giỏ, túi xách học sinh, qua mặt các chốt kiểm tra, quân cảnh.

Trong kho ký ức của bà, có một kỷ niệm rất đặc biệt. Đó là đêm bà cùng một đồng đội nhận nhiệm vụ treo cờ cách mạng lên cột điện. Giữa bóng đêm dày đặc, đôi bàn tay run run vì hồi hộp. Khi lá cờ đỏ tung bay trong gió, bà thấy trái tim mình khấp khởi không ngừng:

"Trong cái giỏ có tờ truyền đơn, cột cờ giải phóng, bảo cô treo lên cột đèn gần đây nè. Xong cô mới rủ Dân đi, nó treo cờ bay phất phới luôn. Sáng ra cảnh sát bận đồ rằn ri ở quận xuống. Hai chị em đứng coi như người dân bình thường, cái hưng phấn của mình càng ngày càng trỗi lên. “Trời ơi hôm qua Việt cộng về đây đông lắm!”. Hai chị em ngó nhau “tao với mày thôi ai đâu mà đông!”

Huy chương kháng chiến và kỷ niệm chương chiến sĩ cách mạng

Lần đầu theo các đồng đội về Cần Giờ, bà không quên được khung cảnh Khu kháng chiến rợp bóng rừng sác, rừng đước. Các chiến sĩ che kín mặt, chỉ để lộ những đôi mắt sáng rực quyết tâm.

Họ họp bàn ngay trong rừng, khi tiếng máy bay “chuồn chuồn” của địch quần thảo trên cao, tất cả đội nón lá, nằm rạp xuống, giả làm bụi cỏ hay ụ rơm. Khi tiếng động cơ xa dần, họ lại tiếp tục họp bàn về các hoạt động kháng chiến, cứu nước.

Trở về Sài Gòn hoạt động giao liên được một thời gian, tin tức bị rò rỉ, lực lượng kháng chiến báo tin cho bà trốn đi, thoát ly để giữ an toàn. Nhưng bà không thể bỏ lại cha mẹ già yếu. Bà vẫn còn nhớ rõ khoảnh khắc đưa ra quyết định:

"Có người tới báo với cô, bây giờ em phải trốn đi liền, thoát ly luôn đi. Nếu bằng lòng đi thì 6h chiều ra ngoài hẻm 280 Nguyễn Tất Thành để đón đi. Trong khi ở nhà cô còn một giỏ truyền đơn, một giỏ cờ. Nếu cô đi nó vô khám xét, ba má cô hứng hết. Cô cũng biết lo cái đó, nên nói thôi, để em tính coi nó như thế nào, để em tính coi sao".

Bà Sửu trở về nhà nhanh trí giấu giỏ truyền đơn nhưng vẫn bị chính quyền tay sai bắt đi. Trong nhà giam, bà bị tra khảo, đe dọa, nhưng tuyệt nhiên không hé lộ một lời. Sự im lặng của cô gái đôi mươi khi ấy không phải là nỗi sợ hãi mà là sự can trường.

Bà nhớ nhất những đêm biệt giam, khi bất ngờ vang lên tiếng hát đồng ca của các tù nhân chính trị. Một bài ca yêu nước vang vọng qua những bức tường lạnh lẽo. Âm thanh ấy thổi bùng ngọn lửa trong bà, biến nỗi sợ thành niềm kiêu hãnh, biến sự cô độc thành sức mạnh can trường:

"Nó chuyển cô qua bên Tổng nha thì nó bỏ cô vào biệt giam chỉ có mình cô thôi. Nhưng mà cả biệt giam ca bài cách mạng nói về Bác Hồ. Nó hưng phấn, dâng trào dữ lắm".

Bà Sửu cùng con cháu trong những tháng ngày hòa bình độc lập dân tộc

Sau những năm tháng hiểm nguy, bà Sửu trở về với cuộc sống bình thường. Bà lập gia đình, sinh con, chăm sóc cha mẹ. Dù không còn trực tiếp dấn thân trong phong trào, nhưng ngọn lửa lý tưởng năm nào vẫn được bà giữ gìn trong từng việc nhỏ.

Con cái bà lớn lên trong vòng tay yêu thương, được giáo dục bằng sự nghiêm khắc và tấm gương kiên cường của mẹ. Đến nay, sáu người con đều đã thành đạt, có người làm việc và cống hiến trong cơ quan nhà nước, tiếp tục con đường phục vụ xã hội theo một cách khác – bình lặng hơn, nhưng vẫn chan chứa trách nhiệm.

Bà Sửu kể, đôi chân mình giờ không còn nhanh nhẹn như xưa vì một tai nạn trong đời đã để lại di chứng, khiến việc đi lại hạn chế. Tuổi xế chiều, niềm vui của bà là tham gia vào các hoạt động thiện nguyện.

Bà dành tiền bạc tích lũy cả đời để góp cùng chùa xây cầu, làm từ thiện giúp người nghèo. Mỗi cây cầu vắt ngang dòng kênh trên khắp ền nam, mỗi phần quà đến tay người khó khăn đều là sự tiếp nối của tinh thần dấn thân tuổi trẻ năm nào.

"Lần đầu tiên cô nhớ không bao giờ quên, cô đi Bến Tre thì cái đường qua sông Bến Tre là cầu khỉ, người ta đi bán sớm có hai mẹ con đã chết rồi. Thật sự mà nói làm cũng khấn Trời Phật thương, cô mới gửi tiền cho ổng (thầy) làm dùm, cũng nhờ có chùa, chứ một mình cô không biết đường. Cũng phải có chùa, có tập thể, nhờ thầy đứng ra. Đó là cây cầu đầu tiên, cô thấy phấn khởi lắm".

Ngồi trong căn nhà nhỏ, nghe bà kể chuyện, tôi thấy trước mắt mình không chỉ là một cụ bà tóc bạc, da nhăn phúc hậu, tôi còn thấy hình ảnh một người nữ sinh Trưng Vương tuổi đôi mươi, gan góc đứng giữa phố Sài Gòn dậy sóng. Ánh mắt sáng ngời năm nào vẫn còn đó trong nụ cười hiền lành của bà hôm nay.

Và tôi nhận ra, ký ức lịch sử không chỉ được lưu lại trong những công trình, những pho tư liệu, mà còn trong chính những con người bình dị như bà. Một thế hệ âm thầm gìn giữ tổ quốc không bằng súng đạn, mà bằng lòng trung kiên, niềm tin sắt đá và sự hy sinh không đòi hỏi hồi đáp.