Quảng trường Ba Đình - trái tim của cả nước, nơi từng chứng kiến thời khắc lịch sử, khởi đầu kỷ nguyên độc lập của đất nước. Cái tên được đặt cho quảng trường này vào mùa thu năm 1945.
Song, còn có một Ba Đình khác ở miền duyên hải, nơi khơi nguồn cảm hứng cho cái tên Quảng trường ở giữa Thủ đô.

Ba Đình, một trưa tháng Sáu. Đứng bóng mặt trời. Con đường nhựa dẫn vào xã Ba Đình, tỉnh Thanh Hóa chỉ đủ mỗi chiều một chiếc ô tô, nhưng bằng phẳng, dễ đi. Một bên là con kênh trong vắt, êm đềm đổ ra sông Hoạt, hàng cây xanh soi bóng đôi bờ.
Một bên là những ngôi nhà mái bằng hoặc nhà tầng, thưa thớt, lùi sâu vào trong. Cái nắng như đổ lửa khiến người đi đường chỉ muốn chạy trốn. Nhưng với bà con vừa thu hoạch vụ chiêm xuân, đây lại là cái nắng trời cho.

Video: Đường vào xã Ba Đình
Trên con đường nhỏ láng xi măng ven kênh, qua cầu Mậu Thịnh, ông Trịnh Mai Khu, thôn Điền Hộ đang đều tay cào thóc.
Với người trồng lúa, “trông trời trông đất trông mây” không chỉ là chuyện lúc cấy cày, mà ngay cả khi thu hoạch, phơi phong, vẫn lo ngay ngáy. Chỉ một cơn mưa bóng mây không kịp chạy lúa, bao công sức sẽ đổ sông đổ bể. Thóc ẩm quá bị vào mùi, ăn còn khó, nói gì đem bán. Thóc giòn quá thì xay xát dễ vỡ, vừa hao gạo, vừa mất giá.

Gắn bó với mảnh đất này 73 năm, gần trọn cuộc đời, cứ mỗi lần thu hoạch, ông Khu lại bồi hồi nhớ về những mùa vụ ngày xưa.
“Hồi ấy, đường là đường đất lầy lội, cứ mỗi khi trời mưa bùn lại dềnh lên. Chỉ toàn người đi bộ chứ có xe cộ gì đâu! Cả xã Ba Đình hồi đó có 3 thôn: Mỹ Khê, Mậu Thịnh, Thượng Thọ, chỗ này là trũng nhất, ngập sâu nhất. Cả năm chỉ cấy được một vụ thôi, vụ tháng Mười ngập trắng băng hết!”- ông Khu kể. Rồi đời sống dần dần khá lên, xóm thôn đông đúc, mở rộng dần ra. Khoảng từ năm 2000 trở lại đây, bắt đầu có đường bê tông, đường nhựa, trường lớp cũng khang trang.
Con đường từ cầu Mậu Thịnh đi ra cánh đồng, đường liên xã vào mỗi thôn, giữa trưa hè, bà con vẫn ngồi bên vệ đường, phe phẩy quạt nan, trông những mẻ thóc óng vàng.
Sân Ủy ban nhân dân xã Ba Đình (cũ), ngày cuối tuần, không có cán bộ đến làm việc, chị Trịnh Thị Thuyên, thôn Thượng Thọ cùng các bà các chị rảo tay cào thóc thành luống, đợi cho nguội bớt rồi mới đóng vào bao.

PV: Năm nay được mùa không chị?
- Được cô ạ! Khá hơn năm ngoái. Hơn thì không nói, nhưng 3 tạ một sào là cái chắc!
PV: Mình làm lúa hay còn trồng gì không?
- Đây vùng chiêm trũng, chỉ trồng lúa thôi. Nhưng bây giờ làm nông đỡ vất vả hơn rồi. Máy móc xuống tận nơi. Chỉ có chỗ nào ruộng sâu, máy không xuống được thì mình phải gặt bộ. Nhưng cũng có nơi người ta tháo nước ra, máy vẫn xuống được đấy!
Sinh ra, lớn lên ở đây, lấy chồng sang thôn khác nhưng vẫn trong xã Ba Đình, chị Thuyên chứng kiến sự đổi thay của quê hương trên con đường chị ra đồng hàng ngày, đường đến trường của con cái, và ngay trên chính cánh đồng, với chính những “hạt vàng” ngày càng chắc mẩy mà vợ chồng chị tảo tần một nắng hai sương.
Bên trong dãy phòng làm việc của trụ sở Ủy ban, ông Mai Văn Xuân, Chủ tịch xã Ba Đình (cũ) sắp xếp nốt các công việc bộn bề, trước thời điểm vận hành chính quyền địa phương 2 cấp. Sau khi sáp nhập, xã Ba Đình mới sẽ hình thành trên cơ sở 4 xã (cũ) của huyện Nga Sơn trước đây.

Ông Xuân cho biết, kinh tế của xã Ba Đình chủ yếu là trồng lúa. Trong những năm qua, xã đã được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, điện đường trường trạm kiên cố, khang trang hơn. Cán bộ xã đã cố gắng huy động xã hội hóa cơ sở vật chất của trường để các cháu có điều kiện học hành tốt nhất, từng bước đầu tư phát triển kinh doanh, thương mại dịch vụ.
“Để cải thiện và nâng cao đời sống bà con, chúng tôi cũng đã vận động bà con tích tụ ruộng đất để có thể ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là hình thành các khu trang trại, gia trại”, ông Xuân chia sẻ.
Video: Ông Mai Văn Xuân - Chủ tịch xã Ba Đình cũ chia sẻ về những đổi thay của quê hương trong hành trình đi lên cùng đất nước

Có một quảng trường Ba Đình nơi trái tim Thủ đô. Từng có một Quận Ba Đình ở trung tâm, nay là một Phường Ba Đình giữa lòng Hà Nội. Và có một xã Ba Đình ở quê hương chiếu cói Nga Sơn. Vậy, cái tên Ba Đình xuất hiện tự bao giờ?
Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Nga Sơn (1945-2025), tên Ba Đình xuất hiện khoảng năm 1886, thời điểm Nghĩa quân Phạm Bành, Đinh Công Tráng xây dựng căn cứ chống thực dân Pháp. Thời đó, khu vực này gọi là “vùng Ba Đình” chứ chưa phải là xã, đơn vị hành chính khi đó còn là tổng, phủ và các làng. Tên Ba Đình được đặt cho chiến khu, nơi nghĩa quân chọn làm căn cứ.

Còn theo nhà sử học Lê Văn Lan, đây là nơi quân và dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An tập hợp lực lượng, hưởng ứng phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Chiến khu xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê, thuộc vùng đồng chiêm trũng.
Vào mùa mưa, căn cứ trở thành một hòn đảo nhỏ, nổi lên giữa ruộng nước mênh mông, xung quanh là lũy tre dày đặc với hệ thống hào rộng, cắm đầy chông nhọn và lỗ châu mai. Mỗi làng trong chiến khu đều có một cái đình, đứng ở đình này có thể quan sát được đình làng khác, nên gọi là chiến khu Ba Đình.
Tiếng trống trận Ba Đình đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh chống ách đô hộ thực dân trong cả nước. Cảm phục tinh thần khởi nghĩa Ba Đình, tháng 7/1945, Thị trưởng thành phố Hà Nội - Bác sĩ Trần Văn Lai đã đặt tên cho vườn hoa Puginier trước Phủ Toàn quyền Đông Dương (nay là Phủ Chủ tịch) thành vườn hoa Ba Đình - sau là quảng trường Ba Đình.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, chứng kiến thời khắc bắt đầu một trang sử mới của cả dân tộc: Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

*Thông tin về hành trình lịch sử của Quảng trường Ba Đình
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, thực hiện chủ trương bỏ cấp tổng, phủ, sáp nhập các xã nhỏ thành thành xã lớn, huyện Nga Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa khi đó gồm 12 xã, trong đó có xã Tam Đình (sau là xã Ba Đình).
Đến năm 1956, huyện Nga Sơn được chia lại thành 23 xã có tên với chữ “Nga” đứng đầu, và xã Ba Đình. Ba Đình chính thức gắn với tên đơn vị hành chính cấp xã của Thanh Hóa từ đó đến nay.
Nguồn gốc cái tên Ba Đình ở Thanh Hóa
- Tên “Ba Đình” xuất hiện khoảng năm 1886, cùng cuộc khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887), tại 3 làng thuộc vùng đồng chiêm trũng của huyện Nga Sơn (cũ), tỉnh Thanh Hóa. Ban đầu là tên căn cứ kháng chiến, sau tên Ba Đình được dùng được đặt cho tên xã.
- Sau năm 1945, thực hiện chủ trương bỏ tổng, phủ, sáp nhập một số xã nhỏ, khi đó gọi là xã Tam Đình, sau là xã Ba Đình.
- Năm 1956, huyện Nga Sơn (cũ) chia tách xã, tên xã Ba Đình chính thức sử dụng ổn định cho đơn vị hành chính cấp xã từ đó đến nay.
- Ba Đình là xã duy nhất trong số gần 30 xã, thị trấn của huyện Nga Sơn (cũ) có tên không bắt đầu bằng chữ “Nga”. Các xã khác là Nga Văn, Nga Phượng, Nga Bạch, Nga Thủy, Nga Thanh…
- Xã Ba Đình trước khi sáp nhập có 6 thôn với 1.485 hộ và 5.578 nhân khẩu. Diện tích tự nhiên là 662ha.
- Sau sáp nhập (từ 01/7/2025), xã Ba Đình mới có dân số hơn 20.600 người, diện tích 27,22km2.
- Trên địa bàn Huyện Nga Sơn (cũ), tên Ba Đình được đặt cho các trường Tiểu học, THCS, THPT, tên các tuyến đường ở trung tâm huyện.
Địa danh Ba Đình ở Hà Nội
- Tháng 7/1945, thị trưởng Hà Nội - bác sĩ Trần Văn Lai đổi tên vườn hoa Puginier trước Phủ Toàn quyền Đông Dương (nay là Phủ Chủ tịch) thành vườn hoa Ba Đình, sau là quảng trường Ba Đình, xuất phát từ sự cảm phục tinh thần của cuộc Khởi nghĩa Ba Đình.
- Ngày 02/9/1945: Tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Năm 1959: tên gọi Ba Đình được đặt cho một trong tám khu phố nội thành của Hà Nội. Năm 1981 khu phố Ba Đình được đổi tên thành quận Ba Đình, với 13 phường, cho đến tháng 6/2025
- Từ 1/7/2025, sau khi sắp xếp lại, bỏ đơn vị hành chính cấp quận, quận Ba Đình (cũ) còn 3 phường, trong đó có phường Ba Đình - Thành phố Hà Nội.
- Từ nguồn gốc của địa danh Ba Đình, xã Ba Đình (Huyện Nga Sơn cũ, Thanh Hóa) và quận Ba Đình cũ, Hà Nội, từng có hoạt động kết nghĩa, để tăng sự liên hệ và gắn kết với truyền thống lịch sử cha ông. (Theo ông Mai Văn Xuân, Chủ tịch xã Ba Đình (cũ).

Con đường dẫn vào nhà cụ Trịnh Xuân Đắc, thôn Mậu Thịnh, xã Ba Đình, buổi chiều hè, tiếng ve kêu ran, những chùm vải đỏ rực trĩu cảnh, nghiêng bóng xuống con kênh trong xanh uốn lượn, như ôm lấy thôn làng. Làn gió mát rượi từ cách đồng ngoài xa đưa vào. Phía ấy, từ sân nhà cụ Đắc nhìn ra, là những mái ngói uốn cong của một công trình đang xây. Cụ bảo, đó là khu di tích khởi nghĩa Ba Đình.
Tuổi 85, mái đầu bạc trắng, làn da đã chi chít những vết đồi mồi, song giọng nói của bậc cao niên làng Mậu Thịnh vẫn khỏe khoẳn, sôi nổi, ánh mắt ngời lên sự minh mẫn, linh hoạt khi cụ kể chuyện những ngày Tháng Tám lịch sử. Cậu bé Đắc dù mới chỉ 4-5 tuổi vẫn nhớ, hồi ấy làng có nhiều người cắm cờ, nhiều người về diễn thuyết trước đông đảo bà con.

“Sau Cách mạng Tháng Tám, dân Ba Đình vừa nghèo, vừa đói, vừa mù chữ, không biết cái giầy cái dép là gì. Quần áo 1 manh. Nhà thì hoàn toàn nhà tranh vách đất. Đi đâu phải đi bằng thuyền, từ nhà này sang nhà này sang nhà kia cũng phải đi thuyền, vì nước mênh mông”, cụ Đắc kể.
Hồi học cấp 2, cậu thiếu niên Đắc phải đi bộ hai lượt, mười mấy cây số mỗi ngày, cởi quần dài vắt lên cổ mà lội, vì nước ngập đến đùi. Buổi trưa không có gì ăn, mấy cậu học trò rủ nhau hái tạm trái bòng bòng (quả roi) để cầm hơi, rồi lên gác chuông nhà thờ ngủ. Bạn bè, có đứa thương cảm và khá hơn một chút thì chia cho củ khoai.
Rồi, cụ cười xòa khi so sánh với cuộc sống bây giờ. “Giờ thì, trẻ con ở làng đi học dăm bảy trăm mét đã có xe đạp điện. Ăn thì phải ép vẫn không chịu ăn. Nhà cửa không còn nhà tạm, diện nhà ngói và mái bằng cũng đến khoảng 65%. Thôn xóm, đâu đâu cũng có câu lạc bộ của các cụ, phụ nữ, thanh niên, đâu cũng có các đội ca hát…”
Video: Cụ Trịnh Xuân Đắc ôn lại những năm tháng đói khổ gian lao nhưng người dân Ba Đình vẫn bền gan vững chí
Cụ Đắc vẫn nhớ như in những năm kháng chiến, không có gạo, phải nhổ cả rễ khoai, rễ rau muống về nấu, mà vẫn tấm tắc khen ngon! Đói khổ là thế, nhưng người Ba Đình vẫn đùm bọc nhau, vẫn kiên trì cấy cày và kháng chiến.
Theo cụ, chính sự kiên cường, bền bỉ đó là khí chất riêng của người Ba Đình. Có giặc thì đánh giặc. Có khó khăn thì khắc phục khó khăn, không gì khuất phục được.

Nhìn ra phía cánh đồng ngoài xa, nơi Khu di tích Căn cứ khởi nghĩa Ba Đình đang được xây dựng, cụ Đắc tự hào: “Nhân dân Ba Đình đã làm nên cuộc khởi nghĩa lẫy lừng thời Cần Vương, đã đóng góp cho kháng chiến gần trăm người con liệt sỹ. Tiểu đoàn Ba Đình đã từng được thành lập ở đây…
Bây giờ, 4 xã vào một, mạnh hơn rất nhiều, mà dân lại rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đồng lòng thực hiện đường lối đó, thì không có một khó khăn nào mà dân Ba Đình không thể vượt qua!”.

Trên khu đất rộng 16,5 của xã Ba Đình, một khu đền thờ đã mọc lên, với mái uốn cong và những cột kèo to lớn, vững chắc. Đó là khu nhà Tiền bái, Hậu bái, Tả vu, Hữu vu, gạch ngói và vật liệu đang được tập kết để hoàn tất các hạng mục công trình. Ông Mai Văn Xuân, Chủ tịch xã Ba Đình (cũ) tranh thủ kiểm tra tiến độ và động viên anh em thợ thi công.
“Nhà Tiền bái sẽ là nơi thờ các Thủ lĩnh và nghĩa quân, nơi trưng bày các hiện vật còn lại của khởi nghĩa Ba Đình. Sẽ có các kênh rạch, hào nước, các lũy tre, tái hiện và mô phỏng căn cứ kháng chiến Ba Đình khi xưa”, ông Xuân cho biết.

Tháng 2/2014, Khu căn cứ khởi nghĩa Ba Đình được cấp bằng xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia (cấp lại). Lãnh đạo xã Ba Đình cho hay, trải qua mưa nắng thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, những di tích cũ gần như không còn. Chỉ còn lại tấm bia di tích (hiện trong khuôn viên của Trường THCS Ba Đình).
Năm 2020, dự án Bảo tồn tôn tạo di tích Khu căn cứ khởi nghĩa Ba Đình được Tỉnh Thanh Hóa phê duyệt gồm 6 hạng mục, trên diện tích 48 ha, quy mô giai đoạn 1 là 93 tỷ đồng. Riêng hạng mục Đền thờ Thủ lĩnh và các nghĩa quân rộng 16,5 ha.
Ngoài ra còn có 3 ngôi đình các làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê, có Giếng Nghè ở phía Bắc - giếng nước của nghĩa quân khi xưa; có di tích ở núi Thúc, Núi Giám, đồn tiền tiêu của cuộc khởi nghĩa.

Khi hoàn thành, Di tích Căn cứ khởi nghĩa Ba Đình sẽ kết nối với các điểm đến như Đền thờ Mai An Tiêm, Động Từ Thức, cửa Thần Phù và nhiều địa danh của Thanh Hóa cũng như các tỉnh bạn, tạo thành một chuỗi du lịch trải nghiệm lịch sử và văn hóa tâm linh cho người dân và du khách.
“Chúng tôi mong vừa có thể giáo dục truyền thống lịch sử cha ông cho các thế hệ của quê hương, vừa giới thiệu lịch sử đầy tự hào tới bạn bè khắp nơi, đồng thời cũng phát triển kinh tế địa phương, nâng cao đời sống bà con bằng việc phát huy các giá trị lịch sử văn hóa truyền thống đó”, ông Xuân kỳ vọng.
Video: Ông Mai Văn Xuân - Chủ tịch xã Ba Đình (cũ) giới thiệu về điểm đến du lịch lịch sử, tâm linh cho du khách sau khi khu di tích được hoàn thành
Với cụ Trịnh Xuân Đắc, chứng nhân lịch sử của làng, hai tiếng “Ba Đình” là cả niềm tự hào, là truyền thống, là khí phách của quê hương. “Tên Ba Đình có từ lịch sử, phải cố gắng giữ lấy tinh thần Ba Đình!”, đó là điều cụ luôn đau đáu nhắc nhở cháu con, và căn dặn các thế hệ cán bộ trẻ.

Video: Cụ Đắc luôn tin tưởng vào tương lai quê hương từ sức mạnh và tinh thần của người dân Ba Đình
Còn với những người dân Ba Đình, như ông Trịnh Mai Khu, chị Trịnh Thị Thuyên, mừng vì quê hương đã bớt vất vả, song họ chưa hết lo âu, vì con cái đi học vẫn chỉ biết trông vào mấy sào ruộng.
Họ mong sao, tinh thần Ba Đình không chỉ được gìn giữ trong ký ức, trong những trang sử, hay những bài giảng ở trường, mà còn thể hiện trong sự đổi thay mạnh mẽ của quê hương, để cuộc sống mỗi ngày thêm no ấm.

Từ tiếng trống trận Ba Đình hưởng ứng ngọn cờ Cần Vương cách đây 140 năm, đến hành trình 80 năm cùng đất nước trong kỷ nguyên độc lập, cái tên Ba Đình đã vươn ra khỏi những lũy tre làng, trở thành địa danh lịch sử nơi Quảng trường của Thủ đô, nơi đón những bước chân từ muôn phương hội tụ, nơi diễn ra những sự kiện trọng đại nhất của đất nước.
Và, ở thôn xóm thanh bình nơi vùng quê chiêm trũng, câu chuyện về Ba Đình vẫn đang được kể, được trao truyền, vẫn không ngừng được viết tiếp bởi các thế hệ hôm nay.
