Về thắc mắc của bạn Minh Trang, VOV Giao thông xin trả lời như sau:
Điểm đ khoản 3 Điều 33 của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 nêu rõ: Người điều khiển mô tô hai bánh, mô tô ba bánh hoặc xe gắn máy không được sử dụng phương tiện để đẩy xe khác dưới bất kỳ hình thức nào.
Về mức xử phạt, Nghị định 168/2024/NĐ-CP quy định mức phạt của từng loại phương tiện đối với lỗi điều khiển xe để đẩy xe của người khác như sau:
Đối với ô tô, điểm h khoản 3; điểm a khoản 16 Điều 6 Nghị định 168/2024/NĐ-CP quy định: Điều khiển xe ô tô đẩy xe của người khác bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng và trừ 2 điểm giấy phép lái xe.
Trường hợp hành vi này gây tai nạn giao thông, mức phạt có thể tăng lên từ 16.000.000 đến 22.000.000 đồng và trừ 10 điểm giấy phép lái xe, căn cứ theo điểm b khoản 10 và điểm d khoản 16 Điều 6 Nghị định 168/2024/NĐ-CP.
Đối với xe mô tô, xe gắn máy, điểm e khoản 3 Điều 7 Nghị định 168/2024/NĐ-CP quy định: Điều khiển xe hoặc chở người ngồi trên xe đẩy xe của người khác bị phạt tiền từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng.
Nếu gây tai nạn, mức phạt được nâng lên thành từ 10.000.000 đến 14.000.000 đồng và bị trừ 10 điểm giấy phép lái xe (theo điểm b khoản 10 và điểm d khoản 13 Điều 7 Nghị định 168/2024/NĐ-CP).
Ngoài ra, trường hợp người ngồi sau trên xe máy tham gia đẩy xe khác cũng bị xử phạt riêng, với mức tiền từ 400.000 đến 600.000 đồng.
Đối với xe đạp, xe đạp máy, điều khiển xe hoặc chở người ngồi trên xe đẩy xe của người khác sẽ bị phạt tiền từ 150.000 đồng đến 250.000 đồng.
Đồng thời, nếu người được chở trên xe đạp, xe đạp máy là người có hành vi đẩy xe của người khác thì người này sẽ bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 250.000 đồng.