Dù nhiều thập kỷ không còn hiện diện trong không gian đô thị, nhưng trong ký ức của các bậc cao niên, tiếng lộc cộc của xe thổ mộ vẫn là âm thanh khó quên - như một lớp trầm tích lặng lẽ dưới những tầng phố xá hiện đại.
Theo công trình nghiên cứu trong cuốn sách “Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu” của PGS. TS Trần Hữu Quang, trong hậu bán thế kỷ 19, chiếc xe ngựa đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn vào những năm 1869 - 1870. Khi ấy các nhân vật dân sự cao cấp của Pháp sang Sài Gòn làm ăn, họ mang theo những chiếc xe song mã để tiện đi lại. Đó là loại xe có gắn cửa kính nên người dân quen gọi là “xe kiếng”.
Các sĩ quan Pháp thì thường dùng xe mui trần, tự cầm cương. Dần dà, phương tiện này không chỉ là hình thức di chuyển cá nhân của người châu Âu mà lan dần vào hệ thống giao thông của đô thị mới hình thành.
Bên cạnh các loại xe phục vụ tầng lớp thượng lưu, đến đầu thế kỷ 20, trên những con đường đất đỏ, loại xe thổ mộ dân dã bắt đầu xuất hiện và phổ biến. Xe thổ mộ là loại xe hai bánh lớn, chạy bằng sức kéo của một con ngựa. Khung xe bằng gỗ, mái cong cong, lòng xe đủ chỗ cho sáu người ngồi đối diện nhau. Ngoài ra, phần mui và thành xe có thể buộc thêm hàng hóa. Người đánh xe ngựa (hay còn gọi là “xà ích”) ngồi vắt vẻo trên càng xe, tay cầm dây cương, mắt dõi theo nhịp vó ngựa. Tiếng lục lạc leng keng trên cổ con vật như tiếng nhạc quen thuộc dọc lối phố thị.
Cố nhà văn Sơn Nam cho biết nguồn gốc xe thổ mộ lúc sinh thời: "Xe kiếng quá sang trọng và nặng nề, chỉ chở được 4 người. Ông cha ta bèn nghĩ ra cải tiến xe kiếng thì tôi cho đây là sự sáng tạo kỳ diệu của đồng bào ền đông để phục vụ SG. Ta mới chế ra một thứ xe, đặt tên là xe thổ mộ".
Tên gọi “thổ mộ” được giải thích bằng những giả thiết khác nhau. Có người cho rằng nó xuất phát từ cách đọc trại của từ “thụ mã” (chỉ xe ngựa kéo) trong tiếng Hoa – thành “thụ mạ” rồi thành “thổ mộ”. Một giả thiết khác gợi hình hơn: hình dáng cong cong, thân liền mui của chiếc xe khiến nhiều người liên tưởng đến nấm mộ đất – nên gọi nôm na là “thổ mộ”.
Xe thổ mộ len lỏi vào đời sống người Sài Gòn không ồn ào. Đến thập niên 1950, đặc biệt tại vùng Hóc Môn, Bà Quẹo, xe ngựa đã trở thành hình ảnh quen thuộc. Bến xe thổ mộ Hóc Môn là một trong những bến lớn, nằm dọc đường ray xe điện - cũng là ga cuối của tuyến xe điện Sài Gòn – Hóc Môn. Từ đây, xe thổ mộ có thể chở người và hàng đi khắp nơi: Đức Hòa (Long An), Trảng Bàng (Tây Ninh), Củ Chi, Chợ Lớn, Cầu Muối…
Những bến lớn và được biết đến nhiều nhất trong thành phố, đều nằm bên cạnh các ngôi chợ nổi tiếng, như Chợ Hóc Môn, chợ Bà Chiểu, chợ Tân Định, chợ Bến Thành…Dù đa phần đều lấy khách đi chợ làm nguồn sống chính, song các bến xe chợ này đều là trung tâm vận tải của cả vùng. Mỗi chiếc xe là một phần nối dài của chợ.
Chở hàng bông, trầu cau, rau trái. Chở bà con đi chợ sớm, đưa học trò về nhà, đưa người từ quê lên phố mưu sinh. Người ngồi xe thổ mộ co ro nhưng gần gũi. Ai cũng quen với tiếng “họ, họ” của bác xà ích, với tiếng leng keng, lộc cộc vang vọng trong sương sớm. Đó là âm thanh rất riêng của một Sài Gòn xưa.
Hồi tưởng lại ký ức, cô Mỹ Dung ở Phú Nhuận chia sẻ: "Hồi đó, đi xe thổ mộ vui lắm, xe nào cũng có hai cái cây (càng xe) để khách móc guốc lên đó vì thời xưa bình dân thì đi guốc. Xe đi trên đường cứ nghe cộc cộc, vui lắm. Trên thùng xe thổ mộ có trải 1 chiếc chiếu, cứ leo lên ngồi đi. Xe thổ mộ phổ biến nhất vì giá đi rẻ hơn nhiều so với xích lô, chỉ cần mấy hào. Còn đi xe xích lô thì phải trả tiền xu".
Tuy nhiên, thời vàng son của xe ngựa chỉ kéo dài hơn chục năm. Từ thập niên 1960, xe thổ mộ dần chịu sức ép của đô thị hóa. Đường sá mở rộng, xe gắn máy và xe lam xuất hiện. Chính quyền đô thị khi ấy bắt đầu có chủ trương hiện đại hóa phương tiện công cộng. Đến năm 1972, bến xe thổ mộ Bà Quẹo chính thức ngừng hoạt động, đánh dấu hồi kết cho thời vàng son của loại hình giao thông này tại Sài Gòn.
Ông Nguyễn Quang Đức ở huyện Hóc Môn, TPHCM cho biết: "Hồi chú nhận thức được thì chú đi năm 6-7 tuổi thì coi như năm 60 đi thì ngựa vẫn còn. Từ Bà Chiểu thông qua Nguyễn Hữu Cầu, xe lam, xe ngựa, xe gắn máy hồi đó, mobirolex,… hồi đó xe ngựa vẫn tồn tại song song như vậy mà không biết nó mất từ hồi nào".
Tuy vậy, sau năm 1975, do thiếu nhiên liệu và khó khăn vận tải, xe thổ mộ từng tái xuất trong một thời gian ngắn tại một số vùng ven. Nhưng rồi, cùng với sự phát triển của giao thông cơ giới, tiếng vó ngựa cũng dần vắng bóng. Từ sau năm 2000, hình ảnh xe ngựa đã tuyệt tích khỏi đường phố. Lịch sử vận tải đường bộ sang trang.
Dẫu những chuyến xe thổ mộ đã lùi sâu vào dĩ vãng, nhưng đâu đó trong tâm trí của các bậc cao niên, hình ảnh chiếc xe gỗ lắc lư giữa phố xá xưa vẫn sống động như một biểu tượng bình dị của một thời nếp sống thô mộc, gắn bó với chợ búa, làng xóm, với tiếng rao, câu chuyện dọc đường.
Giữa đô thị hiện đại hôm nay, ký ức ấy như một vệt nắng cuối chiều - lặng lẽ mà bền bỉ, nhắc nhở chúng ta về một thời từng rất đỗi thân thương.
SỐNG Ở SÀI GÒN: Cà phê bệt Sài Gòn
Giữa những mảng xanh hiếm hoi còn sót lại của trung tâm TP.HCM, cà phê bệt hiện lên như một phần nếp sống tự nhiên của người trẻ thành thị. Không gian công viên trở thành điểm hẹn, nơi ly cà phê không chỉ để uống, mà để ngồi lại nhìn phố xá trôi ngang, để kết nối hay đơn giản là thở cùng nhịp thở của thành phố.
Không cần bàn ghế sang trọng hay không gian cầu kỳ, cà phê bệt tạo nên một hình thức thưởng thức cà phê đầy phóng khoáng và bình dân - một phần không thể thiếu trong văn hóa đô thị Sài Gòn.
Tại một thành phố năng động như TP.HCM, nơi diện mạo kiến trúc và công nghệ thay đổi mỗi ngày, người ta vẫn bắt gặp một hình thức sinh hoạt quen thuộc: những nhóm người ngồi bệt trên vỉa hè, công viên, quanh ly cà phê mang đi, trò chuyện rôm rả, thậm chí làm việc, ghi hình, vẽ ký họa. Đó chính là cà phê bệt - không chỉ là cách uống cà phê, mà đã trở thành một biểu hiện của văn hóa sống mở, trẻ trung, gắn kết và đậm chất đô thị.
Xuất hiện phổ biến từ đầu những năm 2000, cà phê bệt hình thành một cách tự nhiên tại các khoảng không gian công cộng quanh Bưu điện Thành phố, công viên 30/4… Ban đầu, chỉ là vài nhóm bạn trẻ tụ họp, với những ly cà phê mang đi, ngồi lại với nhau dưới bóng cây rợp mát. Dần dần, thói quen ấy trở thành một nếp sinh hoạt quen thuộc của lớp trẻ đô thị: tụ tập, trò chuyện, đàn hát,… hay đơn giản chỉ ngồi lặng yên nhìn người qua lại.
Giới trẻ đặc biệt yêu thích hình thức này, bởi sự linh động, cá nhân hóa và phi khuôn mẫu mà cà phê bệt mang lại. Một cuộc hẹn không cần đặt bàn trước, một ý tưởng nghệ thuật có thể nảy sinh từ ghế đá công viên, một nhóm bạn vừa chơi đàn vừa trò chuyện - tất cả tạo nên nhịp điệu sống mà không quán cà phê thương mại nào tái hiện được.
Ở đấy, người ta được là chính mình - ngồi giữa phố đông, cầm ly cà phê, trò chuyện với bạn cũ hoặc một người xa lạ mới quen. Cũng từ đó, nhiều mối quan hệ nảy nở, nhiều nhóm nghệ thuật đường phố ra đời, và không ít người đã có những hồi ức thanh xuân về một buổi sáng cuối tuần ngồi bệt dưới gốc me già...
Dù đôi lúc vấp phải thách thức về quản lý trật tự công cộng, nhưng thực tế cho thấy cà phê bệt đang dần được nhìn nhận như một hình thức sinh hoạt văn nh, nếu được tổ chức hợp lý. Một số không gian ngoài trời hiện đại như phố đi bộ Nguyễn Huệ, công viên bờ kè kênh Nhiêu Lộc,... cũng đang có những phiên bản "cà phê bệt thế hệ mới" với tinh thần cởi mở, tự nhiên, giao tiếp không rào cản… Tất nhiên, để văn hóa cà phê bệt phát triển bền vững, vẫn cần đi kèm với ý thức cộng đồng: giữ vệ sinh chung, tôn trọng không gian xung quanh, không gây ảnh hưởng đến giao thông, trật tự đô thị. Đó là điều nhiều người trẻ đã ý thức được và cùng nhau chia sẻ trách nhiệm.
Cà phê bệt không ồn ào khẳng định mình là văn hóa, nhưng qua thời gian, chính nó lại trở thành một phần của nhịp sống Sài Gòn - âm thầm, dai dẳng và khó thay thế. Đó là nơi mà người dân tìm thấy sự kết nối, thoải mái và thành phố tìm thấy một phần diện mạo đời sống thật của mình. Cà phê bệt tồn tại như một phần tĩnh lặng mà bền bỉ, phản chiếu tinh thần cởi mở của một Sài Gòn dung dị và hào sảng.
TIN YÊU
# Tại kỳ họp lần thứ 2 HĐND TP.HCM khóa 10, UBND TP.HCM đã trình tờ trình về việc đặt tên đường mới cho 60 tuyến đường và điều chỉnh lý trình 7 tuyến đường tại TP.HCM. Chủ yếu việc đặt tên đường theo tên những người có công với đất nước, mẹ Việt Nam anh hùng… Khu vực các phường, xã tại TP.HCM được đặt tên đường mới gồm: phường Sài Gòn, phường Bình Thới, phường Tân Thới Hiệp, phường Thới An, phường Đông Hưng Thuận, xã Bà Điểm, xã Đông Thạnh, xã Hóc Môn, xã Xuân Thới Sơn.
# Theo kế hoạch, TP.HCM sẽ thí điểm kinh doanh xăng sinh học E10 từ ngày 1/8, với sự tham gia của các tập đoàn xăng dầu lớn như Petrolimex và PVOIL, nhằm chuẩn bị cho việc thay thế hoàn toàn xăng khoáng trên toàn quốc vào năm 2026. Petrolimex đang tích cực chuẩn bị về hạ tầng, công nghệ và nguồn cung ethanol, đồng thời nghiên cứu các giải pháp năng lượng mới như hydrogen để phù hợp với xu hướng chuyển dịch năng lượng và giảm phát thải.
# Tháng 7/2025, TP.HCM ghi nhận khoảng 695.900 lượt khách quốc tế đến tham quan và lưu trú, tăng 75% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là số liệu thống kê đầu tiên kể từ khi thành phố chính thức mở rộng địa giới hành chính, sáp nhập với hai địa phương là Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tính chung 7 tháng đầu năm, thành phố đã đón hơn 4,5 triệu lượt khách quốc tế, tăng 48% so với cùng kỳ và đạt gần 54% kế hoạch năm 2025. Trong đó, riêng tháng 7 là giai đoạn đầu tiên sau khi hoàn tất việc tái cấu trúc không gian hành chính – một bước ngoặt quan trọng giúp ngành du lịch tận dụng tiềm năng liên kết vùng và mở rộng sản phẩm.