Xu hướng tiêu dùng bền vững: Sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường

Người tiêu dùng tại nhiều quốc gia đang dần hướng tới các sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, và coi đó như một tiêu chuẩn cho các sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao.

# Diễn đàn Mekong Startup lần I - năm 2022 với chủ đề “Nông nghiệp hiện đại, tuần hoàn, phát thải thấp” sẽ diễn ra từ ngày 19 - 20/12 tại Đồng Tháp. Trong khuôn khổ diễn đàn sẽ diễn ra các hoạt động trưng bày sản phẩm khởi nghiệp tiêu biểu, giới thiệu công nghệ, kết nối thị trường…

# Vụ vú sữa tím của nông dân xã Trinh Phú, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng năm nay đạt từ 1.000 - 1.200 tấn, trong đó, gần 20 tấn xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Với cây ăn trái nói chung, tỉnh Sóc Trăng đã quy hoạch được 20 vùng trồng theo hướng hữu cơ, đáp ứng tiêu chuẩn VietGAP. 

# Hệ thống phân phối đã thực hiện tương đối tốt vai trò đưa thực phẩm an toàn đến với người dân. Bà Lê Việt Nga, Phó vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước cho biết, hơn 50 tỉnh thành đã xây dựng được hơn 20.000 điểm bán hàng bình ổn, đảm bảo an toàn thực phẩm và có giá cả hợp lý.

Ảnh nh họa (Nguồn: vneep)

Người tiêu dùng tại nhiều quốc gia đang dần hướng tới các sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, và coi đó như một tiêu chuẩn cho các sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao.

Trên thế giới đang có những xu hướng tiêu dùng bền vững nào, và Việt Nam có thể học tập được những gì? Phóng viên VOV Giao thông có cuộc trao đổi với ông Lê Xuân Thịnh, Giám đốc Trung tâm Sản xuất sạch Việt Nam (VNCPC) về nội dung này.

PV: Ông có thể chia sẻ một số xu hướng tiêu dùng bền vững tại các quốc gia trên thế giới?·     

Ông Lê Xuân Thịnh: Tiêu dùng bền vững mới được quan tâm những năm gần đây đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Còn với những nước tiên tiến, tiêu dùng bền vững đã được quan tâm và thúc đẩy cách đây từ 2 - 3 thập kỷ.

Chẳng hạn như ở Nhật Bản, Chính phủ Nhật Bản đã thông qua luật thúc đẩy mua sắm “xanh”, các sản phẩm và dịch vụ “xanh” ở cấp trung ương và địa phương. Những thông tin thông tin về sản phẩm và dịch vụ “xanh” cung cấp cho khách hàng cũng được tăng cường thông qua bộ luật này.

Thứ hai là Hàn Quốc, Chính phủ Hàn Quốc đã hợp tác với các công ty cung cấp thẻ tín dụng. Thẻ tín dụng “xanh” là một phương tiện để tích lũy và sử dụng “điểm sinh thái”. Khi khách hàng chi tiêu trong cuộc sống hằng ngày với các sản phẩm bền vững thì được tích điểm, sau đó có thể quy đổi thành tiền. Thẻ tín dụng “xanh” ở Hàn Quốc đã thu hút hơn 9 triệu người sử dụng.

Ngoài ra, Chính phủ Hàn Quốc cũng cho rằng, nhãn sinh thái cũng là một cách hiệu quả để người tiêu dùng nhận biết sản phẩm “xanh”.

Điển hình thứ ba là Hoa Kỳ, từ năm 2005, luật chính sách năng lượng đã tạo ra những ưu đãi để khuyến khích mua loại xe có mức phát thải thấp. Rồi với các nước Liên nh châu Âu (EU), Ủy ban EU đã khởi xướng các công cụ như dán nhãn sinh thái, hiệu quả năng lượng EU với mục đích thông báo cho người tiêu dùng về các tác động môi trường của sản phẩm; tổ chức các diễn đàn truyền thông.

Đối với Việt Nam, để thực hiện tiêu dùng bền vững có rất nhiều rào cản. Thứ nhất, nhận thức của người tiêu dùng còn chưa đầy đủ.

Thứ hai, danh sách các sản phẩm bền vững hiện nay chưa có nhiều và khó nhận dạng.

Thứ ba, chúng ta đã đưa ra một số chính sách nhưng chưa thực sự khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm bền vững, cũng như các chế tài để đưa người tiêu dùng hướng tới bền vững hơn.·     

PV: Nếu triển khai các mô hình này tại Việt Nam thì cần lưu ý những gì, thưa ông?·     

Ông Lê Xuân Thịnh: Những năm gần đây, Việt Nam đã có rất nhiều chính sách khuyến khích tiêu dùng bền vững, như Quyết định 889 của Thủ tướng Chính phủ, hoặc là Quyết định 1658, cũng đặt các mục tiêu về thúc đẩy lối sống và tiêu dùng bền vững đến năm 2030, chẳng hạn như tỷ lệ xe buýt sử dụng năng lượng sạch phải đạt ít nhất 15%, hoặc tỷ lệ mua sắm công “xanh” phải đạt ít nhất 35%.

Tuy nhiên cũng cần có thêm những chính sách khác để đi vào cuộc sống.

Chẳng hạn như nâng cao tuyên truyền, tập huấn, đào tạo cho người dân hiểu biết về tiêu dùng bền vững. Xây dựng các chuyên đề, đưa các bài học vào trong trường học, thậm chí ngay từ cấp tiểu học. Thứ hai, phải có những chương trình khuyến khích mọi người dân tham gia.

Thứ ba, phải xây dựng được danh mục các sản phẩm xanh và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, công bố thông tin nh bạch để người dân có thể nắm bắt. Thứ tư là phải có chương trình dán nhãn “xanh”, sinh thái để người tiêu dùng dễ dàng nhận biết, bên cạnh đó phải có chế tài xử phạt với các hành vi gian dối.

Thứ năm, đưa các sản phẩm “xanh”, sinh thái vào chương trình ưu tiên mua sắm công “xanh”, những hướng dẫn cụ thể để chương trình này đi vào thực tế.

Cuối cùng là cơ chế tài chính phù hợp như hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm sinh thái; cũng như các chế độ khuyến khích như thẻ tích điểm, thẻ tín dụng “xanh” như Hàn Quốc từng áp dụng.·     

PV: Xin cảm ơn ông!