Vốn vay, chìa khóa giải phóng sức mạnh kinh tế tư nhân

Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng hàng đầu, thì việc khơi thông dòng chảy tín dụng – từ ngắn hạn đến dài hạn – không chỉ là nhu cầu, mà đã trở thành một yêu cầu cấp bách.

Theo Báo cáo PCI 2024 do VCCI công bố, hơn một nửa số doanh nghiệp được khảo sát cho biết họ vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay. Trong khi đó, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng hàng đầu, thì việc khơi thông dòng chảy tín dụng – từ ngắn hạn đến dài hạn – không chỉ là nhu cầu, mà đã trở thành một yêu cầu cấp bách. 

Ảnh nh họa: VOV

Doanh nghiệp than khó trong việc tiếp cận vốn

Trong bối cảnh Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị xác định khu vực kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất cho phát triển kinh tế, thì việc tạo lập hệ sinh thái tài chính phù hợp, đặc biệt là khơi thông dòng vốn vay, đang trở thành yêu cầu cấp thiết.

Là đơn vị đầu tiên xuất khẩu gạo thương hiệu Việt sang Nhật Bản, Tập đoàn Tân Long đang đứng trước yêu cầu đầu tư mạnh vào công nghệ chế biến và bảo quản gạo để đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, lãi suất vay ngân hàng hiện nay khiến nhiều kế hoạch mở rộng sản xuất, đặc biệt cho xuất khẩu, gặp khó khăn.

Ông Trương Sỹ Bá, Chủ tịch Tập đoàn Tân Long, chia sẻ: "Để đầu tư cho nông nghiệp, đặc biệt vươn ra xuất khẩu hàng hoá thì doanh nghiệp cần nguồn vốn để đầu tư công nghệ hiện đại, song mức lãi suất từ 8-10%/năm, quả thực là thách thức. Do đó mong muốn Nhà nước xem xét lãi suất ưu đãi hơn cho ngành nông nghiệp, ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho chế biến sản xuất và bảo quản sau thu hoạch…"

Chung quan điểm về bài toán tiếp cận vốn, ông Nguyễn Vân – Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp Hỗ trợ TP Hà Nội cho biết, hiện nay, nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ đầu tư, sản xuất. Trong khi nhu cầu mở rộng sản xuất là rất lớn, thì chi phí vay vốn – đặc biệt lãi suất cho vay – vẫn ở mức cao, gây áp lực lên dòng tiền và hiệu quả đầu tư.

Trước thực tế đó, ông kỳ vọng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sẽ có những điều chỉnh linh hoạt về cơ chế tín dụng, nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho khu vực doanh nghiệp, nhất là khối doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công nghiệp hỗ trợ – vốn đang đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng công nghiệp quốc gia:

"Mức lãi suất cho vay vẫn còn cao, đều trên 6-8%, thậm chí hơn 8%/năm. Chúng tôi rất mong muốn tới đây vấn đề nguồn vốn  sẽ có sự điều tiết của Chính phủ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đi vào thực chất hơn – cụ thể như cho các Ngân hàng thương mại cổ phần là đơn vị tiếp nhận nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ có nhu cầu vay để sản xuất được tín chấp, thế chấp bằng chính những hợp đồng của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia vào Đại dự án như đường sắt cao tốc Bắc – Nam".

Ảnh nh họa

Cần có nhiều kênh tạo vốn cho doanh nghiệp

Dưới góc nhìn chuyên gia, một trong những điểm nghẽn lớn nhất là hệ thống tài chính hiện nay vẫn phụ thuộc nặng vào tín dụng ngân hàng, trong khi thị trường vốn chưa phát triển tương xứng.

Bà Nghiêm Thị Thà, Tổng thư ký Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam, nêu rõ: "Cần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách tài chính, muốn huy động nguồn vốn thì thể chế của chúng ta cần phải có chính sách đồng bộ. Do đó, chúng ta cần phải rà soát lại, rà soát cả chính sách về tín dụng đối với hệ thống kinh tế tư nhân bây giờ và rà soát đối với hệ thống về pháp luật về quản lý tài chính".

Cùng quan điểm này, Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công cho rằng nền kinh tế muốn phát triển bền vững cần có nhiều kênh tạo vốn cho doanh nghiệp, không chỉ phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng:

"Trong thời gian tới, chúng ta cần phải tập trung củng cố phát triển thị trường vốn một cách lành mạnh ở Việt Nam, phải học tập các thị trường vốn của các nước để xây dựng một thị trường vốn hiện đại, gồm nhiều kênh tạo vốn cho doanh nghiệp chứ không chỉ có kênh dựa vào cấp tín dụng của ngân hàng. Theo đó, chúng ta có vốn trung hạn và dài hạn dưới các hình thức như trái phiếu, các quỹ đầu tư, các hỗ trợ của Nhà nước về lãi suất vay vốn cho những đối tượng doanh nghiệp được ưu tiên…"

Tăng trưởng tín dụng đã đạt mức 16,5 triệu tỷ đồng, tăng gần 19% so với cùng kỳ – một con số tích cực cho thấy khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế được cải thiện. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, vấn đề không chỉ nằm ở số lượng vốn mà còn là chất lượng dòng vốn – tức “vốn phải đúng nơi, đúng nhu cầu”.

Theo đại diện Ngân hàng Nhà nước, sau khi Nghị quyết 68 được ban hành, ngành ngân hàng đã có những bước triển khai cụ thể bằng việc ban hành hai Quyết định của Thống đốc nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân.

Ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN), cho biết: "Hiện ngành ngân hàng còn tích cực thực hiện nhiều chương trình tín dụng. Ví dụ như chương trình tín dụng ngắn hạn trị giá 300.000 tỷ đồng; chương trình tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với quy mô 80.000 tỷ đồng; và đặc biệt là chương trình 500.000 tỷ đồng cho vay đầu tư hạ tầng...

Hiện đã có 21 ngân hàng thương mại chuẩn bị nguồn lực để triển khai gói 500.000 tỷ đồng. Trong đó, 4 ngân hàng thương mại nhà nước giữ vai trò chủ lực, mỗi ngân hàng đăng ký hơn 60.000 tỷ đồng. Còn 12 ngân hàng cổ phần tư nhân quy mô lớn đăng ký mỗi đơn vị hơn 20.000 tỷ, các ngân hàng quy mô nhỏ hơn đăng ký khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi đơn vị. Điều này thể hiện ngành ngân hàng luôn đồng hành cùng doanh nghiệp".

Trong giai đoạn phát triển mới, vốn cho kinh tế tư nhân không chỉ cần đủ mà phải đúng hướng – vào sản xuất, công nghệ và tạo việc làm. Thực thi hiệu quả Nghị quyết 68 sẽ là cú hích giúp đa dạng hóa kênh vốn, hoàn thiện thể chế và giảm chi phí tài chính. Khi những rào cản về lãi suất, tín dụng và pháp lý được gỡ bỏ đồng bộ, khu vực tư nhân mới có thể phát huy vai trò động lực tăng trưởng bền vững của nền kinh tế./.