Truyền thống "Thương người như thể thương thân"

Từ câu ca dao xưa “Đói cơm thiếu áo thì ra Đông Thành”, người Hà Nội đã để lại một dấu ấn rất đặc biệt trong lịch sử: càng gian khó, họ càng sẻ chia. Nhưng điều gì đã khiến một kinh đô sầm uất lại trở thành nơi cưu mang biết bao phận người qua suốt nghìn năm?

Trong bài viết của Nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến, hãy cùng ngược dòng thời gian-từ những buổi chợ bên sông Tô, những mùa tản cư thời Trần, cho đến những chuyến xe đạp thời bao cấp-để khám phá vì sao lòng nhân ái lại trở thành truyền thống bền bỉ của người Thăng Long-Hà Nội.

Ca dao cổ Hà Nội có câu “Đông Thành là mẹ là cha/Đói cơm thiếu áo thì ra Đông Thành”. Đông Thành là chợ lớn nhất Thăng Long thời nhà Lý. Chợ nằm bên bờ sông Tô trong mát quanh năm đông đúc. nhộn nhịp kẻ mua người bán các loại hàng hóa.

Người xưa có lòng tự trọng cao, cực chẳng đã họ mới ngửa tay xin ăn và các bà các cô bán hàng thấy người đói vì thiếu sẵn lòng cho quà bánh cùng tiền.

Thăng Long là kinh đô, nơi tập trung các cơ sở sản xuất thủ công, là đầu mối giao thương với các vùng ền trên cả nước và nước ngoài vì thế đã hình thành tầng lớp trung lưu. Và những người giầu có lại có tâm nên họ sẵn lòng giúp đỡ người nghèo khó như một cách tích đức. 

Thế kỷ 13, Đại Việt 3 lần bị quân Nguyên Mông xâm lược, chúng chiếm đóng Thăng Long. Để đánh đuổi quân xâm lược, các vua Trần đã thực hiện kế sách vườn không nhà  trống, ra lệnh dân chúng ở kinh đô phải tản cư về các vùng quê. Không thể sản xuất, không thể buôn bán nhưng họ được bà con cho ở nhờ, giúp  gạo, rau củi lửa cho đến khi quân xâm lược thua trận phải về nước.

Ảnh nh họa

Biết ơn những tấm lòng nhân ái với tha nhân nên mỗi khi các tỉnh bị hạn hán, lũ lụt gây mất mùa là người Thăng Long đã quyên góp mang đi giúp đỡ. Từ đó kinh đô Thăng Long hình thành lối sống “thương người như thể thương thân” không kể giầu hay nghèo, lối sống ấy được nhân lên thành truyền thống.

Thời nhà Nguyễn, từ năm 1867-1886 đê Văn Giang 18 lần bị vỡ, cả một vùng rộng lớn  trắng nước, lúa và hoa mầu chết thối, người dân chỉ còn cách dắt díu nhau đi quanh vùng xin ăn và đông nhất là ra Hà Nội, tiếng kêu nghe thảm thiết khiến ai ai cũng đau lòng  nên mới có câu “Oai oái như phủ Khoái xin ăn”.

Cũng trong thời kỳ này ở Hà Nội lan truyền tấm gương làm việc thiện của bà Lê Thị Mai ở huyện Thọ Xương. Chồng mất khi còn trẻ, không tái giá bà dùng  tài sản làm việc thiện. Bà làm nhà cho học trò nghèo các tỉnh về trọ ễn phí, mua sách, bút mực cấp không cho trò không có điều kiện. Ở đâu đê vỡ, bà đong gạo nhờ người mang đến phát.

Tiếng thơm lan vào kinh đô Huế, khi bà mất, vua Tự Đức đã ban cho bà tấm bia 3 chữ “Tiết phụ từ” do chính ông viết. Tiếp nối truyền thống, đầu thế kỷ 20, người Hà Nội lập hàng chục  hội thiện, tổ chức chặt chẽ có tôn chỉ mục đích rõ ràng, tiền quỹ nh bạch. Sử sách đã ghi lại những tấm lòng nhân đức như nhà tư sản Bạch Thái Bưởi, ông bà Trịnh Văn Bô, nhà buôn Hoàng Thị Uyển (tức bà Cả Mọc) và rất nhiều gương sáng  khác.

Thời kỳ bao cấp, khi các tỉnh thành bị thiên tai, địch họa nhà nước nhận trách nhiệm hỗ trợ. Tuy nhiên,  người Hà Nội sống bằng tem phiếu, bìa sổ rất khó khăn, song các gia đình vẫn bớt  phần ăn cứu giúp. Đi lại không thuận tiện, họ đã có sáng kiến, tổ trưởng dân phố cùng thanh niên khỏe mạnh chở xe đạp đưa đến tận nơi, phát tận tay. Có chuyến họ đạp xe hơn trăm cây số.

Trong thời điểm hiện tại, Hà Nội cùng nhiều tỉnh thành trên cả nước chung lòng góp vật chất giúp các tỉnh ền Trung bị thiệt hại nặng nề vì mưa lũ. Nhiều nhóm, hội  thiện nguyện với quan điểm giúp người không  để lấy tiếng, họ  âm thầm huy động, lặng lẽ chở vào tận nơi trao đúng địa chỉ cần sự giúp đỡ. Những việc làm đó là nối tiếp truyền thống làm việc thiện của người Thăng Long-Hà Nội