Thị trường vàng sau Nghị định 232: Từ độc quyền đến cạnh tranh minh bạch

Sau hơn 13 năm vận hành theo mô hình độc quyền, thị trường vàng tại Việt Nam đang bước vào một giai đoạn hoàn toàn mới.

Với Nghị định 232 vừa được ban hành, cơ chế quản lý vàng đã có sự thay đổi mạnh mẽ – từ siết chặt sang mở có kiểm soát, từ độc quyền sang cạnh tranh lành mạnh. Đây không chỉ là điều chỉnh về chính sách, mà là một bước tiến trong tư duy điều hành thị trường. 

Bằng quyết tâm chính trị và tốc độ chính sách, Chính phủ đã ban hành Nghị định 232/2025/NĐ-CP, chính thức chấm dứt giai đoạn hơn một thập kỷ mà thị trường vàng ếng chỉ xoay quanh một thương hiệu duy nhất – SJC – và chịu sự độc quyền nhập khẩu, sản xuất bởi Ngân hàng Nhà nước.

Dưới góc nhìn của giới kinh doanh vàng, việc phá vỡ thế độc quyền thương hiệu là nền tảng để hình thành một thị trường đa dạng sản phẩm, cạnh tranh nh bạch và hiệu quả.

Ảnh nh họa

Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam, ông Đinh Nho Bảng nhận định: "Thay đổi làm cho thị trường vàng không còn “độc canh”, thị trường vàng có sự cạnh tranh vàng ếng và nhiều sản phẩm. Tất nhiên vàng ếng không phải là vô cùng, trước đây 1 SJC sau là hàng trăm, không phải thế, chỉ dăm bảy thương hiệu vàng ếng. Lượng tính nhu cầu thị trường để cho ra sản phẩm vàng.

Đối với doanh nghiệp có uy tín, có khả năng, bởi ra thị trường không thể thế nào cũng được... Tôi nghĩ chắc chắn Nhà nước sẽ chọn dăm ba thương hiệu để đưa ra… Thị trường có chỉ đạo của Chính phủ và có định hướng của chính sách, người dân có quyền lựa chọn mua loại nào, cất trữ loại nào".

Ở đây, thị trường vàng đang được tái cấu trúc theo mô hình “đa cực cạnh tranh có kiểm soát”, tương tự như thị trường bảo hiểm hay ngân hàng. Việc không mở toang cánh cửa cho tất cả, mà lựa chọn một số thương hiệu đủ uy tín và năng lực cũng là một bước đi cân bằng giữa ổn định tài chính và tự do hóa thị trường.

TS. Nguyễn Trí Hiếu – chuyên gia tài chính – cho rằng Nghị định 232 không chỉ là một bước ngoặt về mặt thị trường, mà còn thể hiện sự thay đổi vai trò của Ngân hàng Nhà nước: từ “người chơi” chuyển thành “trọng tài”. Đây là bước cần thiết để đảm bảo tính trung lập và nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ: Đây là bước tiến quan trọng vì thị trường vàng hiện tại đang ở trong cơn sốt vàng vì không có nguồn cung. Nhu cầu vàng thì đang cao và nhu cầu vàng của VN đang bị tác động bởi nhu cầu vàng thế giới.

Nhu cầu vàng thế giới đang lên rất cao, giá vàng trên thế giới đang tiến tới mốc 3.400 USD/ounce và có thể tiến tới 3500 USD/ounce. Trong khi đó vàng trong nước nguồn cung hạn chế nên đẩy giá vàng lên mức cao nhất từ trước tới nay. Chính vì thế Nghị định 232 được ban hành trong lúc này để giải toả ách tắc đó để có thể cung cấp 1 nguồn vàng để quân bình cung cầu trên thị trường vàng ếng.

Ảnh nh họa

Nghị định 232 cũng không thả nổi thị trường. Nhà nước tiếp tục giữ vai trò điều tiết, định hướng và kiểm soát bằng các tiêu chí rõ ràng về cấp phép sản xuất vàng ếng, điều kiện kinh doanh vàng trang sức mỹ nghệ, cũng như trách nhiệm pháp lý và tài chính của các đơn vị tham gia.

Cơ chế chọn lọc doanh nghiệp vàng – tương tự mô hình quản lý của Ngân hàng Nhà nước với hệ thống ngân hàng thương mại – là cách để giữ ổn định hệ thống tài chính trong khi vẫn tận dụng được sức mạnh thị trường.

Ông Hoàng Văn Cường, nguyên Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định: "Chúng ta phải dùng công cụ thị trường để cân bằng thị trường. Tất nhiên, đây là thị trường đặc biệt nên mở cửa thị trường nhưng phải có sự kiểm soát của Nhà nước. Nhà nước cần ban hành các tiêu chuẩn, tiêu chí và những đơn vị được kinh doanh vàng ếng thì phải đưa ra tiêu chuẩn để lựa chọn được những đơn vị thực sự có tiềm lực, uy tín. Chính những uy tín và tiềm lực của họ sẽ đưa ra được những sản phẩm đạt được những quy chuẩn".

Nghị định 232 là một bước ngoặt chính sách tài chính, đặt nền móng cho một thị trường vàng nh bạch, cạnh tranh và có kiểm soát, thay vì mô hình độc quyền nặng tính hành chính suốt hơn một thập kỷ qua. Thị trường vàng – vốn bị xem là “ẩn số” trong điều hành tiền tệ – giờ đây đang dần trở thành một công cụ được tích hợp vào tổng thể chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia.