Giữa lòng Sài Gòn náo nhiệt, có một bán đảo nhỏ vẫn được người dân trìu mến gọi bằng cái tên thân thương: “ốc đảo.” Nơi ấy, gió sông mát rượi, những gánh bún riêu, hủ tiếu buổi sáng len lỏi trong con hẻm, và từng dãy chung cư cũ lưu giữ ký ức của bao thế hệ.
Thanh Đa từng một thời rực rỡ với rạp chiếu sáng đèn, xe lam rộn ràng qua phà, chợ búa tấp nập. Giờ đây, nhiều dấu ấn vàng son đã lùi vào dĩ vãng, thay thế bằng những hàng quán ồn ã, những khối chung cư loang lổ vết nứt. Thế nhưng, giữa đổi thay, nơi này vẫn giữ lại nhịp sống chậm rãi, lặng lẽ như để ẩn mình khỏi những hối hả của thành phố ngoài kia.
Chiều tà, gió từ sông Sài Gòn thổi mát rượi, mang theo chút mằn mặn, khiến bán đảo này dù cách trung tâm không xa vẫn như một thế giới riêng biệt. Người ta quen gọi nơi đây là “ốc đảo” giữa lòng Sài Gòn nơi bao thế hệ sinh ra, lớn lên và chất chứa không ít ký ức thăng trầm.
Trong một căn hộ nhỏ ở khu cư xá, cô Nguyễn Thị Phương Trâm nay đã ngoài 70 ngồi bên cửa sổ nhìn xuống khoảng đất trống trước mặt, nơi từng là hai lô chung cư số 4 và 6 nay đã bị giải toả:
“Lúc đó 2 lô này chưa đi thì dân đông đúc, vui. Mấy năm về trước vui, chợ cũng nhộn nhịp, bây giờ thưa thớt. 2 lô này đi dân cũng kéo theo qua bên Chu Văn An, thành ra giờ cũng hơi buồn. Sáng người ta tập thể dục đông đông lên nhìn cũng đỡ chứ nếu mà chiều tối mà trời mưa người ta đi đâu hết, không còn người thành ra vắng.”
Gia đình cô Trâm sinh sống tại khu cư xá Thanh Đa từ năm 1978, trải qua đến bốn thế hệ. Hơn nửa đời người gắn bó với mảnh đất này, cô đã chứng kiến trọn vẹn những thời khắc hưng thịnh nhất của khu bán đảo. Những năm sau Giải phóng ền Nam 1975, Thanh Đa từng là niềm tự hào của cư dân thành phố. Các lô 1-3-5 chung cư được chọn làm nơi nghỉ dưỡng cho cán bộ viên chức, cả những học sinh đạt thành tích cao. Không khí khi ấy náo nức, đông vui, gắn kết.
“Lúc 1978 cô đứng trên lầu, mới nhìn xuống, nhà nghỉ mát công đoàn. Trong đó là 3 lô, lô 3, lô 7 với lại lô 5. Khu nghỉ mát, giống như khu an dưỡng, mấy người cán bộ, học sinh xuất sắc được lên trên này an dưỡng”, cô Trâm nói.
Hồi thập niên 1990, khi chưa có những cây cầu nối liền, việc đi lại còn nhiều cách biệt. Mỗi ngày, cô đều đặn đi xe lam qua phà Bình Quới, rồi lên chợ Bà Chiểu mua dầu cháo quẩy về bán cháo, cuộc sống cứ thế bình dị trôi qua. Thỉnh thoảng, những người bạn cũ của cô Trâm cũng ghé về thăm, mang theo chút rộn ràng của những ngày xưa cũ. Nhưng rồi, như những cánh chim mỏi sau phút dừng chân, họ lại bay đi khắp nơi.
Nhắc đến những người bạn năm xưa, ánh mắt cô thoáng sáng lên rồi chùng xuống, giọng chậm lại như đang tự sự: “Mấy cái đứa, mà thân thiệt là thân, nó đi ra nước ngoài hết. Có đứa thì nó thăm, thỉnh thoảng nó cũng có về. Còn có đứa nó biệt luôn, đâu có thấy nó đâu. Buồn chứ.”
Giờ đây, chợ Thanh Đa không còn rộn ràng, thay vào đó là hàng quán tự phát chen chúc dưới chân chung cư. Xe lam, phà Bình Quới cũng biến mất, nhường chỗ cho dòng xe máy nối đuôi nhau qua cầu Kinh Thanh Đa. Những con đường đất lầy lội ngày xưa đã được trải nhựa phẳng lì, bờ kè kiên cố ngăn nước triều, hệ thống điện đèn sáng rực mỗi tối.
Nhìn lại những đổi thay ấy, cô Trâm kể lại: “Hồi trước chỗ này cũng ngập dữ lắm, mưa xuống, thuỷ triều lên. Trời ơi, ngập còn hơn cái sông. Làm bờ kè, chiều tới giờ này người ta tụ họp xuống bờ kè, xuống dưới, vui chơi ở dưới.”
Những khối chung cư từng hiện đại nay loang lổ vết nứt, cầu thang sắt han gỉ, một số block treo biển cảnh báo nguy hiểm. Thanh Đa hiện tại vừa náo nhiệt, vừa chật chội, mang dáng vẻ của một đô thị nửa cũ nửa mới. Thế nhưng, giữa lớp bụi thời gian, nơi này vẫn giữ lại những điều đáng quý: khí hậu ven sông mát mẻ, nhịp sống thong thả, và một cộng đồng chan hòa tình nghĩa.
“Ở quen rồi, giờ có dời đi chỗ khác cũng không bằng, không bằng cái khí hậu ở đây. Gần sông, gần suối. Từ Thanh Đa này, mình có điều kiện mà muốn dời đi, rất là tiếc, vì khí hậu ở đây rất là ‘ngon’, mát mẻ.”
Hiện tại, dù nhiều dự án vẫn còn “treo” và không ít công trình đã xuống cấp, Thanh Đa vẫn giữ được điều quan trọng nhất: tình người. Nhịp sống nơi đây chậm rãi, chan chứa nghĩa tình; người dân sẵn sàng sẻ chia chén nước, bữa cơm, cùng nhau dựng tấm bạt che mưa hay trông chừng con trẻ giúp hàng xóm. Buổi sáng, người lớn tuổi thong thả tập thể dục bên bờ kênh, trẻ nhỏ ríu rít đá bóng dưới sân chung cư, còn các hàng quán ven sông thì đón những người tìm về mảng xanh hiếm hoi giữa lòng Sài Gòn.
Trong ánh mắt thoáng buồn nhưng cũng đầy tự hào của cô, có thể thấy rõ một điều: dẫu đổi thay, Thanh Đa vẫn là nơi neo đậu bình yên của một đời người, nơi từng lớp cư dân đã và đang viết tiếp câu chuyện về một “ốc đảo” giữa lòng Sài Gòn.
Và có lẽ, chính sự chậm rãi dịu dàng của nơi này đã níu giữ bước chân những người từng đi xa rồi quay về, như thể chỉ tại đây họ mới có thể lắng nghe nhịp đập thật chậm của thời gian, mới có thể sống chậm lại một chút giữa vòng quay hối hả của thành phố rộng lớn. Thanh Đa vẫn ở đó, như một lời thì thầm dịu êm giữa phố xá ồn ã, nhắc nhớ rằng giữa bao đổi thay chóng mặt, vẫn còn những nơi người ta có thể trở về, để được là chính mình bình yên và nguyên vẹn.
SỐNG Ở SÀI GÒN: Không chỉ là một bến phà
Phà Bình Quới từng là nhịp nối nghĩa tình giữa bán đảo Thanh Đa và Thủ Đức, không chỉ là phương tiện đi lại mà còn là mảnh ký ức chan chứa của người dân TPHCM. Thế nhưng, hai năm qua, con phà ấy nằm im vì vướng mắc thủ tục pháp lý, để lại nhiều hoài niệm nhưng cũng gây ra những bất tiện nhức nhối cho cuộc sống thường ngày.
Câu chuyện phà Bình Quới không chỉ là giao thông đi lại, mà còn nhắc nhở rằng, bên cạnh những công trình hiện đại mọc lên, thành phố cần biết gìn giữ và trân trọng những giá trị đời thường gắn bó với người dân.
Hơn hai năm kể từ ngày phà Bình Quới tạm ngưng hoạt động, bến sông vốn từng đông đúc nay chỉ còn vắng lặng, in bóng hoài niệm. Với nhiều người dân TPHCM, nơi này gợi nhớ một nhịp sống chậm rãi, nghĩa tình của quá khứ. Nhưng bên cạnh nỗi nhớ, thực tại cho thấy việc “đóng phà” đang gây không ít khó khăn cho đời sống của rất nhiều người dân hai bên bờ sông.
Trước đây, chỉ mất vài phút đi phà là đã sang bờ. Nay, người dân Thanh Đa muốn sang Thủ Đức phải vòng xa gấp đôi, thậm chí gấp ba. Một đoạn đường ngắn ngủi biến thành gần chục cây số, chưa kể cảnh kẹt xe giờ cao điểm. Thương nhất là ở phía người lao động khi con đường mưu sinh càng thêm chật vật. Thế mới thấy đó không chỉ là chuyện một phương tiện đi lại bị ngưng hoạt động, là nỗi nhớ nhung một phần ký ức đô thị, mà còn là sự đảo lộn đời sống dân sinh, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Vì vậy rất cần sự quan tâm tháo gỡ từ chính quyền và doanh nghiệp.
Câu chuyện phà Bình Quới ngưng hoạt động được các trang truyền thông đại chúng nêu rất rõ về nguyên nhân khi những vướng mắc pháp lý của doanh nghiệp chưa thực hiện hoàn thành và kéo dài. Dù chính quyền và các đơn vị liên quan đã có sự nhắc nhỡ nhưng vấn đề vẫn chưa thể thay đổi. Và rồi, khi thủ tục chưa thông, phà đành “nằm im”, còn người dân tiếp tục chịu thiệt thòi.
Nhìn từ góc độ quản lý, việc yêu cầu hoàn thiện pháp lý là cần thiết, đảm bảo tính nh bạch và an toàn. Nhưng nhìn từ góc độ dân sinh, sự chậm trễ kéo dài này rõ ràng là bất hợp lý. Không thể để thủ tục mãi ì ạch trong khi nhu cầu đi lại bức thiết của rất nhiều cư dân bị bỏ ngỏ.
Ở đây, trách nhiệm không chỉ thuộc về doanh nghiệp mà còn thuộc về cơ quan quản lý, những người cần sát sao, đồng hành, thậm chí chủ động tháo gỡ vướng mắc để sớm khôi phục một dịch vụ công ích thiết yếu.
TPHCM là đô thị luôn biến chuyển. Những cây cầu mới mọc lên giúp kết nối nhanh chóng. Nhưng khi chưa có những cây cầu hiện đại ấy thì việc giữ những bến phà hoạt động là nhu cầu cần thiết để giảm tải cho hạ tầng giao thông, giảm sự vất vả cho đời sống trong mỗi người dân phố thị.
Không chỉ là một phương tiện, phà còn là một phần ký ức, một di sản cũ kỹ trong một đô thị phát triển, tạo thêm màu sắc hài hòa. Thế nên, nếu cần, hãy để những chiếc phà còn tồn tại có thể hoạt động trong dòng chảy của đô thị.
Một thành phố văn nh, hiện đại không chỉ được đo bằng những công trình lớn, mà còn ở chỗ biết giữ gìn, phát huy những giá trị nhỏ bé nhưng gắn bó mật thiết với đời sống người dân. Với bến phà Bình Quới, trách nhiệm nên chia đều cho cả tất cả các bên: doanh nghiệp và chính quyền.
Bởi như thế thì những vướng mắc mới có thể được giải quyết trôi chảy khi đôi bên cùng nhau ngồi lại tháo gỡ.
Có thể nhiều người nghe qua sẽ nghĩ đó chỉ là một bến phà, nhưng đối với hàng ngàn người dân khác và thậm chí nhiều hơn thì đó lại là nhịp cầu sinh kế và ký ức. Cần có sự phối hợp và thúc đẩy tiến độ để bến phà sớm được hoạt động trở lại trong tương lai.
Bởi một thành phố hiện đại không thể để những nhu cầu dân sinh cơ bản bị bỏ quên và sự phát triển của một đô thị bậc nhất phải luôn song hành cùng niềm an cư của người dân.