Không chỉ giữ nghề, bà còn khiến con tằm… biết dệt chăn, và biến sợi sen thành lụa. Một câu chuyện kỳ lạ nhưng có thật – bắt đầu từ một người đàn bà nhỏ bé với tình yêu lớn lao dành cho làng nghề quê hương…
BÊN DÒNG THỜI GIAN
Bên dòng Đáy hiền hòa, làng Phùng Xá (xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Nội) từng được biết đến như một ền đất ươm tơ dệt lụa. Từ năm 1929, nghề trồng dâu, nuôi tằm, quay tơ, dệt lụa đã bén rễ, ăn sâu vào từng nếp nhà, thấm vào từng lời ru, câu hát. Nghề không chỉ nuôi sống bao thế hệ mà còn là niềm kiêu hãnh của một làng quê mang đậm bản sắc Việt. Thế nhưng, cũng có một thời…
“Đến năm 1984, trồng dâu, nuôi tằm đã không còn được “ưa chuộng”, người dân chuyển đổi sản xuất sang trồng lúa để mưu sinh và lãng quên dần nghề truyền thống".
“Có những giai đoạn thăng trầm, ảnh hưởng nhiều của yếu tố nước ngoài, phải bán hàng Trung Quốc. Từ năm 2007-2008 suy sụp rất nhiều cho nên em trai, em dâu đều chuyển sang làm công việc khác”.
Khi làng nghề đứng bên bờ mai một, tiếng thoi đưa cũng dần im ắng, bà Phan Thị Thuận – lúc đó là kế toán cho hợp tác xã dâu tằm – vẫn không nỡ buông bỏ cái nghiệp “tằm ăn lá, người ăn tằm”. Thấy người làng dỡ khung, bỏ thoi, bà lặng lẽ nhặt nhạnh từng khung gỗ, từng bánh guồng đem về nhà, dựng lại cả một ền ký ức dệt lụa. Tơ lòng bà vẫn luôn neo nơi dòng sông Đáy, nơi tuổi thơ gắn liền cùng nong tằm, nắm dâu:
“Công việc trồng dâu nuôi tằm bố mẹ đã cho tôi, gắn liền với hơi thở, mạch máu của tôi. Tôi nhớ các cụ tôi ngày xưa vẫn nói là, một lá dâu là xâu tiền. Rồi con tằm ăn lá nhả vàng. Nếu biết giữ gìn nó sẽ cho mình sợi tơ vàng.
Cái sợ tơ vàng sẽ giúp cho người quay tơ, người dệt cửi, nó tạo ra rất nhiều công việc cho người lao động địa phương. Đời tôi khi Tổng công ty Dâu tằm tơ phá sản không mua tằm tơ của Mỹ Đức nữa. Tôi được lãnh đạo huyện, xã rất quan tầm cái nghề truyền thống này, cho tôi đi tìm cách phát triển được nghề".
Với khát khao “giữ hồn dân tộc trong từng sợi tơ”, nghệ nhân ưu tú Phan Thị Thuận lặn lội đến từng hội chợ, triển lãm, không chỉ để bán sản phẩm, mà còn để lắng nghe, thấu hiểu khách hàng. Từ những mảnh vải lụa mang đậm màu sắc thổ cẩm đến những tấm vải lụa thô mộc mạc, mỗi sợi tơ đều là kết tinh của sự sáng tạo, của tâm huyết giữ nghề:
“Giờ máy công nghiệp nhiều, làm rất dễ, cạnh tranh với sản phẩm của mình. Nên tôi phải suy nghĩ cách làm thế nào dễ nhất, tốt nhất để nhiều người làm được nghề thủ công như tôi.. Như cách pha chế màu dệt như thế nào, khách thích thổ cẩm, dệt thổ cẩm, thích lụa thô dệt lụa thô.
Tôi đau đáu, nghiên cứu nghĩ ra làm thế nào để con kén hỏng phải tận dụng làm ra sản phẩm gì, phân con tằm lại bón lại cho cây trồng, rồi con nhộng thì làm thảo dược, để gia tăng giá trị cho sản phẩm".
Những ngày lặng lẽ bên nong tằm đã thổi bùng lên ngọn lửa sáng tạo. Năm 2012, bà cho ra đời một phát nh chưa từng có tại Việt Nam: chăn tơ tằm do chính con tằm tự dệt, không qua bàn tay người thợ.
Hiểu sâu sắc thói quen, chu kỳ sinh trưởng của tằm, bà đã "dẫn lối" cho chúng đan nên một tấm kén phẳng – bước chuyển mình đột phá của làng nghề. Anh Lê Vân Nam, con trai nghệ nhân ưu tú Phan Bích Thuận chia sẻ:
“Giai đoạn đầu không ai tin được. Vì tập tính con tằm là nó phải đan thành áo kén để bảo vệ cơ thể nhưng bây giờ bắt nó làm ra dạng phẳng để làm chăn bông thì nghe còn mơ hồ lắm, không ai đồng tình đâu. Thế nhưng mà bà kiên trì, sau 4-5 năm thử nghiệm, thất bại cũng nhiều.
Song cuối cùng bà kết luận điều khiểm được nó,làm được theo ý mình. Bởi vì bà là người sinh ra trong làng nghề Phùng Xá. Bà làm nghề đời thứ 4 rồi bà rất hiểu con tằm, từ lúc nó nở từ cái trứng ra thành con tằm chín, sau đó làm ra cái kén rồi ươm tơ, dệt lụa. Bà lợi dụng yếu tố tự nhiên đó để bắt nó làm theo ý mình".
Từ thành công ấy, bà lại tiên phong nghiên cứu dệt vải lụa từ sợi tơ cuống sen – một nguyên liệu thuần Việt, thấm đẫm hồn quê. Vải tơ sen của bà đã vang danh quốc tế khi được Thủ tướng Việt Nam chọn làm quà tặng tại Hội nghị Thượng đỉnh G20 năm 2019.
Nghệ nhân ưu tú Phan Thị Thuận không chỉ là người giữ nghề, mà còn là người thổi hồn mới vào truyền thống, làm sống lại cả một làng lụa bên dòng sông Đáy:
“Không phải chúng tôi ở xưởng không. Mà cả lao động trong toàn huyện cơ, những người làm tằm, bán kén. Cả huyện mỗi mình bà còn làm. Bà không những yêu nghề mà còn rất sáng tạo, như bà làm được cả sợi tự nhiên rất là khó như sợi sen, rồi con tằm ngày xưa chỉ biết ươm tơ không thôi thì bây giờ bà điều khiển con tằm tự dệt ra nền chăn".
Ở tuổi ngoài 70, bà Phan Thị Thuận vẫn gắn bó với nong tằm, khung cửi. Dẫu thời gian có phủ bạc mái tóc, gương mặt đã in dấu nhọc nhằn, nhưng ánh mắt bà vẫn sáng ngời niềm tin và tình yêu với nghề. Tiếng lách cách thoi đưa vang lên như một khúc nhạc của hồn làng, như lời ru dịu dàng của đất mẹ Phùng Xá…
SỐNG Ở HÀ NỘI
Từ 1/7/2025, Hà Nội sẽ thay đổi lớn: bỏ cấp quận, huyện; thu gọn hơn 500 xã, phường xuống còn 126. Hàng trăm địa danh quen thuộc sẽ không còn trên bản đồ hành chính Thủ đô. Nghe qua, có thể thấy tiếc. Nhưng nếu nhìn lại lịch sử nghìn năm của Thăng Long – Hà Nội, ta sẽ thấy: đổi thay địa danh chưa bao giờ là điều mới.
Tên gọi có thể mất đi, nhưng hồn phố, hồn làng – vẫn còn đó, chỉ chuyển mình theo thời cuộc. Bài viết sau của nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến Bài là một lát cắt lịch sử – giúp chúng ta hiểu rằng, sự thay đổi tên gọi là tất yếu trong một Thủ đô luôn vận động, và đằng sau mỗi lần xóa tên cũ, lập tên mới… luôn là khát vọng vươn tới một tương lai rộng mở hơn…
Từ ngày 1-7-2025, Hà Nội sẽ bỏ cấp quận, huyện như các tỉnh. 526 xã phường quen thuộc của Thủ đô được thu gọn thành 126. Tên 30 quận, huyện, thị xã được dùng để đặt tên phường xã mới nhưng 400 tên xã phường không còn.
Theo triều dài lịch sử, không có mảnh đất nào diễn ra nhiều biến động về địa giới, thay đổi tên gọi cấp hành chính như Hà Nội. Tính từ khi vua Lý Thái Tổ khai sáng kinh đô Thăng Long năm 1010 đến tháng 7 năm 2025, Thăng Long-Hà Nội đã gần 20 lần thay đổi gồm: địa giới, thêm hay bớt số cấp hành chính, xóa tên cũ, lập tên mới.
Thời Lý, Trần kinh đô có 1 phủ, dưới phủ gồm 61 phường. Đến nhà Hậu Lê, Thăng Long vẫn một phủ song dưới có hai huyện, mỗi huyện 18 phường. Khi nhà Nguyễn cai quản, kinh đô chuyển vào Huế, Thăng Long gọi là Bắc Thành và vua Gia Long đã phân chia địa giới vùng đất kinh thành xưa.
Từ 36 phường thời Lê, ông chia nhỏ thành 250 phường, xã, thôn trại, bốn cấp này tương đương nhau, như vậy xuất hiện thêm 214 tên mới. Năm 1831, vua Minh Mạng thực hiện cải cách hành chính, lập tỉnh Hà Nội gồm 4 phủ, 15 huyện đất Thăng Long xưa thuộc phủ Hoài Đức. Phủ này có 2 huyện nhưng Minh Mạng đã tinh giảm số phường xã trước đó còn 143.
Năm 1883, thực dân Pháp xâm chiếm tỉnh Hà Nội, năm 1888 họ lập thành phố Hà Nội trên một phần kinh đô cũ, cải tạo phố cũ, xây phố mới dùng tên địa danh cũ đặt tên phố và lấy tên người Pháp đặt cho các phố mới.
Trong nửa đầu thế kỷ 20, Hà Nội có bốn lần thay đổi số khu phố và bốn lần đổi tên phố. Sau năm 1954 cho đến nay, tổng cộng Hà Nội có 7 lần mở rộng, tách, thay đổi tên gọi cấp hành chính, từ khu phố đổi thành quận. Cấp hành chính là khối đổi thành tiểu khu và cuối cùng chuyển thành phường. Năm 2008, Quốc hội ra nghị quyết mở rộng địa giới hành chính Hà Nội, sáp nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây và một số huyện của Vĩnh Phúc 4 xã thuộc tỉnh Hòa Bình vào Thủ đô Hà Nội.
Mỗi lần chính quyền thay đổi địa giới, thay đổi cấp hành chính, bỏ tên cũ lập tên mới đều nhằm những mục đích khác nhau. Vua Gia Long tăng số phường, xã vì mô hình quản lý khác triều Hậu Lê dân xã, phường phải đóng góp nuôi lý trưởng. Vua Minh Mạng bắt xã phường lấy mỹ từ, có ý nghĩa đặt tên vì ông chê tên cũ xấu, tục và nhiều ký tự gây khó khi vào sổ sách.
Giai đoạn chính quyền Pháp cai quản, dân số Hà Nội tăng cơ học và tăng tự nhiên rất cao nên họ tăng số khu phố tiện bề quản lý an ninh, họ dùng số thứ tự để đặt. Sau năm 1954, dân đông trong khi diện tích thành phố quá chật trội, nên Quốc hội ra nghị quyết mở rộng để lấy đất xây dựng nhà máy, xí nghiệp.
Rồi áp dụng mô hình Thủ đô của các nước xã hội chủ nghĩa, nội thành phát triển công nghiệp, ngoại thành phát triển nông nghiệp cung cấp thực phẩm cho nội thành nên sinh ra khu phố nội thành và các huyện ngoại thành. Sau một thời gian dài, quỹ đất Hà Nội hẹp dần, để có đất và mở rộng không gian phát triển vì thế mới sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội.
Ngày hôm nay, việc nhà nước tinh giảm số xã phường, bỏ cấp quận huyện nhằm hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. Nhiều tên tỉnh, huyện, xã, phường không còn chắc chắn sinh ra tâm lý nuối tiếc, bùi ngùi nhưng rồi sẽ quen vì thay đổi này không phải là lần đầu.
TIN YÊU
- Thủ đô Hà Nội đón 15,55 triệu lượt khách trong nửa đầu năm 2025, theo số liệu mới công bố từ Sở Du lịch Hà Nội. Đáng chú ý, lượng khách quốc tế đạt 3,66 triệu lượt, tăng mạnh 21,8%, trong khi khách nội địa tăng 9%. Tổng doanh thu từ du lịch đạt 62.299 tỷ đồng, tăng 14,6%, vượt xa thời kỳ trước dịch Covid-19.
- Sở Du lịch Hà Nội vừa giới thiệu loạt sản phẩm du lịch mới hấp dẫn, sẵn sàng bứt phá mùa cao điểm dịp lễ 2/9, tăng tốc phát triển từ nay đến hết năm. Nổi bật trong số các sự kiện sắp tới là nhóm 20 sản phẩm du lịch đêm, như chương trình "Tiếng chuông Trấn Vũ" tại đền Quán Thánh - một không gian tâm linh, văn hóa được tái hiện lung linh về đêm, hứa hẹn trở thành điểm đến mới của khách quốc tế và khách nội đô.
- Hai tuyến "Con đường di sản Nam Thăng Long" và "Con đường đạo học" dự kiến ra mắt vào tháng 8 sẽ đưa du khách đi qua chuỗi di tích, đình chùa, làng cổ gắn với lịch sử giáo dục và văn hóa Thăng Long – Hà Nội. Ngoài ra, những không gian sáng tạo như "Tuyến phố bao cấp Trúc Bạch - toa tàu điện số 6 - Leng keng di sản", hay trải nghiệm làng thuốc Nam của người Dao tại bản Miền (Ba Vì) cũng được triển khai với kỳ vọng tạo nên "các điểm check-in mang bản sắc Hà Nội".
- Kỷ niệm 59 năm Ngày thành lập Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (24/6/1966 – 24/6/2025), Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam vừa ra mắt không gian trưng bày mỹ thuật ứng dụng và mỹ thuật dân gian. Không gian trưng bày mỹ thuật ứng dụng và mỹ thuật dân gian là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống trưng bày Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, góp phần phản ánh rõ nét lịch sử phát triển của mỹ thuật Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.