Sau khi được ghi danh, các di sản thế giới ở Việt Nam đã góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên thế giới, thu hút du lịch và góp phần phát triển kinh tế của các địa phương nơi có di sản thế giới. Hiện nay công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới đang được Việt Nam thực hiện như thế nào?
Việt Nam nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hoá, thiên nhiên thế giới
Ngày 12/7/2025, tại Thủ đô Paris, Cộng hòa Pháp, Ủy ban Di sản Thế giới (UNESCO) đã chính thức công nhận Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn, Kiếp Bạc (thuộc địa bàn các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Ninh và thành phố Hải Phòng) là Di sản Văn hóa Thế giới. Đây là Di sản thế giới thứ 9 ở Việt Nam được UNESCO công nhận và là Di sản thế giới liên tỉnh thứ 2 ở Việt Nam, cùng với Di sản thế giới Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà (thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng).
Trước đó, Việt Nam có 8 di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận. Bao gồm 2 di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), Vịnh Hạ Long- quần đảo Cát Bà (tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng) và Phong Nha- Kẻ Bàng (tỉnh Quảng Bình), 1 quần thể di sản hỗn hợp là Quần thể Danh thắng Tràng An; 5 di sản văn hoá thế giới: quần thể di tích cố đô Huế; Khu di tích Chăm Mỹ Sơn; Đô thị cổ Hội An, Hoàng thành Thăng Long (Tp.Hà Nội) và Thành nhà Hồ (tỉnh Thanh Hoá).
PGS.TS Đinh Hồng Hải, Trưởng Bộ môn Nhân học Văn hóa, Khoa Nhân học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn nhận định, Việt Nam rất quan tâm tới công tác bảo tồn các giá trị di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới :
"Nếu mà chúng ta nhìn trên một bình diện chung, có thể thấy, Chính phủ, Quốc hội Việt Nam và giới nghiên cứu đang làm rất tốt về vấn đề bảo tồn di sản. Thực tế có rất nhiều công trình di sản của chúng ta được ghi danh vào Danh sách di sản của UNESCO và được bảo tồn trùng tu."
Năm 1972, Việt Nam đã tham gia công ước của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa thế giới và năm 1987 về di sản thiên nhiên thế giới. TS. Nguyễn Viết Cường, Trưởng Phòng Quản lý di tích, Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết, để quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị những di sản văn hoá thế giới, Việt Nam đã và đang xây dựng, hoàn thiện khung chính sách pháp luật:
"Năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định 109 về quản lý, bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam. Đến nay, các quy định của UNESCO đã có những bổ sung mới như: vấn đề bền vững, cộng đồng và đánh giá tác động di sản. Đồng thời, Luật Di sản văn hóa năm 2024 đã được Quốc hội thông qua ngày 23/11/2024. Chính vì vậy, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện nghị định về quản lý, bảo vệ di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới."
Theo TSKH Vũ Thị Minh Hương, Nguyên Cục trưởng Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Ký ức thế giới UNESCO Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nhìn chung, các địa phương đang sở hữu các di sản văn hoá thế giới, ngoài việc đáp ứng các quy định tại Luật Di sản văn hoá, cũng phải thực hiện theo các tôn chỉ, mục đích các yêu cầu của UNESCO:
"Sau khi được ghi danh, các địa phương, các cá nhân, gia đình dòng họ sở hữu những bộ sưu tập của thế giới đã cố gắng thực hiện theo đúng yêu cầu của UNESCO trong việc bảo tồn và phát huy giá trị. Về cơ bản, công tác này được thực hiện rất tốt, cũng có một vài địa phương vi phạm. Khi tiếp nhận những thông tin này, bao giờ Cục Di sản văn hoá, là cơ quan quản lý nhà nước thuộc Bộ Văn Hoá Thể thao Du lịch, đều có văn bản và báo cáo Thủ tướng Chính phủ để có chỉ đạo chấn chỉnh kịp thời ."
Hài hoà giữa bảo tồn di sản và lợi ích kinh tế
Vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam được UNESCO được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới vào tháng 12/1994. Đến nay, sau hơn 30 năm, vịnh Hạ Long được bảo vệ nguyên trạng, song các giá trị mới khai thác được 10-20% giá trị tài nguyên du lịch và không có nhiều sản phẩm du lịch mới.
Đại diện ban Quản lý Vịnh Hạ Long cho biết, thời gian tới, địa phương sẽ phát triển thêm nhiều sản phẩm du lịch để hài hoà giữa bảo tồn di sản và lợi ích kinh tế. Trong đó, trước mắt nâng cấp các sản phẩm du lịch đang có; tiếp đó là nghiên cứu để phát triển các sản phẩm du lịch mới theo hướng lựa chọn những sản phẩm du lịch đẳng cấp phục vụ cho các dòng khách cao cấp, có chi trả cao nhất. Ví dụ sẽ khai thác hệ thống các hang động hiện nay còn đang bỏ ngỏ và hệ thống các bãi tắm, ở những khu vực xa khu trung tâm và xa những khu mà có đông du khách.
Tiến sĩ, KTS Lê Phước Anh, Trưởng khoa Khoa Kiến trúc, Đô thị và Khoa học bền vững, Trường khoa học liên ngành và nghệ thuật, ĐH quốc gia Hà Nội phân tích, các Di sản khi được xếp hạng di sản văn hóa, thiên nhiên của thế giới, thường được kiểm soát, quản lý tốt hơn so với những di sản không được xếp hạng. Tuy nhiên, “bảo tồn lý tưởng” là phải bảo tồn làm sao cho giá trị di sản vẫn tiếp tục sống và phát triển, chứ không nên bảo tàng hóa, cũng như chỉ tập trung vào công trình di sản được xếp hạng, mà cũng phải quan tâm, phát triển môi trường, bối cảnh, quần thể xung quanh các di sản, những giá trị văn hoá của khu vực đó.
Từ thực tế trải nghiệm Di sản thiên nhiên thế giới tại Lào, Tiến sĩ, KTS Lê Phước Anh đặc biệt ấn tượng với thành phố Luang Prabang của Lào trong lần thứ 3 quay trở lại vào năm 2023. Mặc dù, đô thị cổ này có tuyến đường sắt cao tốc nối với thủ đô Viêng Chăn chạy qua, nhưng vẫn vẹn nguyên những dấu ấn của đô thị cổ:
"Tôi cảm thấy ấn tượng mạnh nhất là ở chỗ, Luang Prabang vẫn là thành phố có nhiều sức sống, không khác nhiều so với cách đây mười mấy năm. Mặc dù, nó có biến đổi nhưng chúng ta vẫn tìm lại được rất nhiều ký ức của một thành phố thời xưa ở đấy. Người dân họ cũng vẫn cảm thấy là có một nhịp sống bây giờ chứ không phải là chỉ đang đi về quá khứ, đồng hành với phát triển nhưng vẫn giữ được hình ảnh nếu như chúng ta muốn quay lại tìm cái quá khứ thì vẫn có.
Một thành phố vẫn giữ được nhịp sống đấy mà không trở nên xô bồ mà cũng không trở nên quá thiên về quá khứ. Tôi nghĩ cái việc cân bằng đó cực kỳ ấn tượng."
Cân bằng giữa mục đích hiện tại của cuộc sống, nhưng vẫn đảm bảo cho người dân cảm thấy việc lưu giữ những hình ảnh quá khứ mang lại những giá trị để người dân đồng hành, thay vì chỉ tuân theo những quy định khiến cuộc sống của người dân bị đóng băng là một kinh nghiệm tốt của Lào mà Việt Nam có thể xem xem học tập để đảm bảo cho các Di sản văn hoá, thiên nhiên thế giới vẫn được bảo tồn và phát huy giá trị một cách bền vững trong tương lai.
Cần bố trí nguồn lực cho công tác bảo tồn
Để bảo tồn và phát huy giá trị các Di sản văn hoá, thiên nhiên thế giới, bên cạnh xây dựng khung chính sách pháp luật, cũng rất cần bố trí nguồn lực cho công tác bảo tồn. VOV Giao thông đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Phạm Trung Lương, nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu du lịch xung quanh nội dung này:
PV: Mới đây, Bộ Văn hoá Thể thao và du lịch đã ban hành Nghị định quy định về bảo vệ và quản lý di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam. Theo ông, Nghị định này có ý nghĩa như thế nào đối với công tác bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam ?
PGS.TS Phạm Trung Lương: Để bảo vệ các giá trị di sản nói chung và di sản thiên nhiên, văn hoá thế giới, đã được UNESCO công nhận, Việt Nam đã có Luật di sản. Đó là nền tảng để chúng ta thực hiện những hành động cần thiết trong việc bảo vệ các giá trị di sản nói chung và những di sản đã được UNESCO công nhận ở Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Luật di sản cũng gặp một số khó khăn do chưa có những hướng dẫn cụ thể. Đặc biệt là đối với các Di sản thiên nhiên, văn hóa thế giới mà UNESCO công nhận. Bởi vì sao? Bởi vì, chúng ta phải ý thức được rằng, những hướng dẫn đối với việc bảo vệ các giá trị này không chỉ là các quy định của Việt Nam mà còn phải tương đồng với các quy định trên thế giới.
Từ góc độ đó, có thể nhìn nhận, Nghị định mới được ban hành rất có giá trị. Bởi vì đó là cái hướng dẫn để thực hiện Luật di sản nhưng cụ thể chỉ riêng đối với những Di sản giá trị đã được UNESCO công nhận và nó mang tính kế thừa hoặc là tiếp thu những cái quy định đang thực hiện trên thế giới.
PV: Thưa ông, để thực hiện bảo vệ và bảo tồn các giá trị văn hoá, thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận, trong thời gian tới khi thực hiện các hoạt động bảo tồn và khai thác, Việt Nam cần phải lưu ý những vấn đề gì ?
PGS.TS Phạm Trung Lương: Chúng tôi cho rằng, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, trong quá trình triển khai Luật Di sản và các Nghị định gặp khó khăn trong phối hợp/ liên kết trong các bên có liên quan.
Hiện nay mỗi ngành, từ góc độ của mình, có những điều chỉnh hành vi xung quanh việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản. Ngay giữa ngành du lịch và ngành văn hóa cũng đã có luật riêng. Việc đưa ra Nghị định này trên cơ sở tích hợp những quy định, những nội dung ở các luật khác nhau của các ngành có liên quan đến bảo tồn và phát huy các giá trị di sản. (ngành du lịch đâu và ngành tài nguyên môi trường). Cái khó khăn nhất ở Việt Nam chính là sự phối hợp liên ngành trong thực hiện và bảo tồn những giá trị văn hoá, thiên nhiên thế giới.
PV: Thưa ông, tại một số quốc gia trong khu vực cũng có nhiều kinh nghiệm trong quản lý các giá trị di sản thế giới, có bài học kinh nghiệm nào mà Việt Nam có thể học hỏi được không?
PGS.TS Phạm Trung Lương: Chắc chắn có nhiều cái kinh nghiệm trong quản lý và khai thác các giá trị di sản thế giới, mà Việt Nam có thể học hỏi được. Ở nhiều nước, khi mà đã phân cấp trực tiếp cho ai quản lý di sản thì người đó có quyền quyết định những hoạt động hướng về việc bảo tồn và phát huy những giá trị. Tình trạng “cha chung không ai khóc” sẽ được khắc phục nếu như giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm, cơ quan này có trách nhiệm nghiên cứu tất cả các luật pháp có liên quan khi triển khai một hoạt động nào đó liên quan đến bảo tồn giá trị văn hoá.
Thứ hai, chúng ta có quy định nhưng chưa có nguồn lực thực sự cho việc bảo tồn, chúng ta không chỉ rõ trong các quy định, không chỉ rõ nguồn lực ở đâu. Đứng ở góc độ du lịch, việc khai thác các giá trị Di sản này là rất cần thiết, rất quan trọng vì không có giá trị này thì không có sản phẩm du lịch, không thể phát triển được. Chúng tôi đã từng đề xuất trích bao nhiêu % từ hoạt động du lịch để quay lại công tác bảo tồn nhưng chưa được quan tâm, xem xét.
Chúng tôi cho rằng, trong các chính sách phải có quy định nguồn lực cụ thể cho hoạt động bảo tồn. Hiện nay trong các quy định pháp luật chưa quy định rõ.
Đối với di sản văn hoá đã được UNESCO công nhận, nguồn lực dành cho các Di sản này phải lớn hơn rất nhiều. Nếu thiếu nguồn lực, chúng ta khó thực hiện mục tiêu bảo tồn hiệu quả những giá trị di sản văn hoá, thiên nhiên thế giới một cách bền vững.
PV: Xin cảm ơn ông!