Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định phải bảo tồn, phát triển và quản lý các khu bảo tồn biển bảo đảm cân bằng sinh thái, đa dạng sinh học, phát triển kinh tế biển...
Vậy để nâng cao hiệu quả của công tác bảo vệ và khai thác các khu bảo tồn biển hiện nay của Việt Nam cần phải làm gì? VOVGT đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh, Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện khoa học xã hội vùng trung bộ, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam xung quanh nội dung này:
PV: Thưa ông, hiện nay các khu bảo tồn biển của Việt Nam đang được bảo vệ như thế nào ?
PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh: Hiện nay chúng ta có 16 khu bảo tồn biển đã được đưa vào danh mục nhưng các khu bảo tồn biển này chưa được đưa xây dựng quy hoạch, một số có quy hoạch bảo tồn, một số thì chưa có. Có một số khu bảo tồn kết hợp giữa biển và đảo như Khu bảo tồn Cù Lao Chàm, khu Hòn Mun.
16 khu bảo tồn nằm ở những vùng ền khác nhau cho nên các khu vực có điều kiện khác nhau, do đó đặc điểm khác nhau, cần gắn kết với quy hoạch tổng thể.
Do vậy, cần phải lồng ghép các khu bảo tồn này vào quy hoạch tổng thể các vùng ven biển và quy hoạch của các tỉnh đã đưa vào quy hoạch phát triển các khu bảo tồn. Tôi thấy, quy hoạch các tỉnh ven biển nói vẫn còn sơ sơ về các khu bảo tồn biển, chưa cụ thể. Do đó, phải có một quy hoạch làm sao đảm bảo tính hài hoà giữa bảo tồn và khai thác hợp lý khu bảo tồn biển.
Hiện nay khung pháp lý của chúng ta mới đang nằm ở Luật đa dạng sinh học, Luật bảo vệ môi trường và hải đảo và một số Luật khác nhưng cơ chế chưa linh hoạt.
Kinh tế biển xanh là một định hướng cho phát triển kinh tế biển bền vững. Và các quy hoạch phát triển kinh tế biển của các tỉnh đều hướng vào kinh tế biển xanh, lấy phát triển kinh tế biển dựa vào hệ sinh thái. Do vậy, để phát triển và quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển hiện nay, thì trước hết chúng ta hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo tồn biển và tích hợp vào các chính sách phát triển kinh tế biển.
PV: Để bảo tồn và khai thác các khu bảo tồn biển hiệu quả, theo ông thời gian tới, các địa phương có biển cần phải làm gì?
PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh: Đối với vấn đề bảo tồn và khai thác, cần phải có một công cụ quản lý mang tính chất địa phương, quản lý lãnh thổ của địa phương thông qua công cụ tổng giá trị kinh tế tài nguyên. Trên một lãnh thổ của mình có rất nhiều các dạng tài nguyên: giao thông, thuỷ sản, năng lượng tái tạo… Tất cả các tài nguyên này phải đánh giá, sau định giá. Địa phương đó phải quản lý tổng giá trị tài nguyên về mặt kinh tế, sau đó mới đưa ra các phương án, chẳng hạn nếu khai thác thuỷ sản thì chúng ta được bao nhiêu, giảm khai thác những cái khác được bao nhiêu.
Sử dụng công cụ đó giúp chúng ta tạo ra hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cho quản lý tài nguyên và xây dựng được khung bảo vệ cho các khu bảo tồn và lấy hệ sinh thái làm điểm tựa cho phát triển các ngành kinh tế biển khác. Vấn đề này cũng cần nguồn lực tài chính, công nghệ trong giám sát bảo vệ.
Ngoài ra, cũng cần nâng cao ý thức của các nhà quản lý và cộng đồng. Cộng đồng người ta cũng tạo ra được khu bảo tồn biển rất tốt, như khu bảo tồn Rạn Trào, ở Khánh Hoà- khu bảo tồn cộng đồng tự bảo vệ và được công nhận là khu bảo tồn biển.
Vai trò của địa phương là quản lý lãnh thổ. Dựa trên luật định để thực thi chính sách, bảo vệ và quy hoạch các khu bảo tồn biển, đặc biệt phối hợp với các ngành để thực hiện chiến lược phát triển bền vững, xây dựng vùng quy hoạch ven biển hợp lý, đặc biệt là phân vùng chức năng biển.
PV: Vâng. Xin trân trọng cảm ơn ông!
Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.260 km, cùng hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, là “kho báu” tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú. Thế nhưng, theo thống kê, hiện chưa đến 10% diện tích vùng ven biển của chúng ta được bảo vệ hiệu quả. Nhiều khu bảo tồn biển vẫn loay hoay giữa mục tiêu gìn giữ đa dạng sinh học với áp lực phát triển kinh tế, du lịch và khai thác hải sản.
Ghi nhận của phóng viên VOVGT quốc gia về công tác quản lý các khu bảo tồn biển và những giải pháp để hướng tới một nền kinh tế biển xanh, bền vững.
Nguồn lợi thủy sản suy kiệt vì khai thác quá mức
Trải dài bờ biển Việt Nam hiện đã quy hoạch 16 khu bảo tồn biển, trong đó có nhiều khu trọng điểm như Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Lý Sơn, Hòn Cau, Phú Quốc và Cà Mau. Đây là những “lá chắn xanh” quan trọng, góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển và tạo cơ hội phát triển du lịch sinh thái.
Thế nhưng, thực tế lại không mấy khả quan. Nhiều nơi, công tác quản lý mới chỉ dừng lại ở việc giữ rừng trên đảo, còn tài nguyên biển lại bị bỏ ngỏ. Không ít vùng biển bị khai thác quá mức, xả thải gây ô nhiễm, và thậm chí xâm hại đến mức báo động.
Nhìn từ thực tế, hiện nay nguồn lợi thủy sản ở nhiều nơi đang dần cạn kiệt bởi sự thiếu kiểm soát trong cách khai thác, đánh bắt. Ông Nguyễn Đình Văn, một ngư dân tại Cà Mau cho biết, khoảng hơn 5 năm trở lại đây nghề đi biển chẳng còn là nghề “vàng son” như ngày nào, mà thay vào đó là những chuyến ra khơi đầy lo lắng. Bởi may thì lưới nặng cá, rủi thì thuyền nặng lo:
“Ngư dân giờ khó sống lắm. Hồi trước dễ làm vì cá mực nhiều, giờ lượng ghe đông quá rồi đánh bắt tận diệt quanh năm, suốt tháng thì nguồn thuỷ sản sao sinh sản kịp. Dễ lỗ lắm.”
Ông Phạm Văn Mười, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cà Mau cho biết, với ba mặt giáp biển, Cà Mau sở hữu vùng ngư trường rộng lớn hơn 120 nghìn km², là nơi cư trú của hàng nghìn loài sinh vật biển quý hiếm. Đây không chỉ là “vựa cá, vựa tôm” của cả nước mà còn là khu vực có giá trị chiến lược về an ninh sinh thái. Thế nhưng, nguồn lợi thủy sản ven bờ đang có dấu hiệu suy giảm do khai thác quá mức và sử dụng ngư cụ tận diệt. Nhằm khắc phục tình trạng này, tỉnh đã triển khai hàng loạt giải pháp mạnh mẽ.
“Thời gian qua triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm từng bước chấm dứt các hoạt động khai thác thủy sản mang tính chất hủy diệt. Qua đó tổ chức tuyên truyền vận động cho người dân, tổ chức có tham gia khai thác. Ngoài ra, tại xã, phường đã thành lập đường dây nóng, cử cán bộ tiếp nhận xử lý thông tin phản ánh nhằm kịp thời ngăn chặn hiệu quả các hoạt động khai thác mang tính chất tận diệt.
Đến nay, có hơn 200 hộ dân chuyển đổi nghề với nhiều mô hình tiêu biểu như: bẫy ốc mực, lưới ghẹ, câu kiều, nuôi mực lá thương phẩm, nuôi sò huyết…đây là các giải pháp để giúp người dân từng bước chuyển đổi nghề.”
Không chỉ dừng lại ở đó, Cà Mau còn thành lập 175 tổ cộng đồng với hơn 4.000 thành viên cùng tham gia quản lý, bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Gần đây, tỉnh cũng đã thả 900 khối rạn nhân tạo xuống vùng biển Tây, góp phần phục hồi sinh cảnh và ngăn chặn tàu lưới kéo xâm phạm vùng bảo tồn.
Tuy nhiên, công tác quản lý vẫn còn không ít khó khăn như tình trạng thiếu đồng bộ giữa các cấp, các ngành; nguồn lực và kinh phí thì vẫn còn hạn chế so với thực tế nhu cầu; phần lớn cán bộ phải kiêm nhiệm và thiếu chuyên sâu; việc phối hợp giữa liên ngành dù có cơ chế phối hợp nhưng vẫn thiếu tính thường xuyên, đặc biệt biên phòng, kiểm ngư, chính quyền địa phương và người dân trên thực tế vẫn chưa phối hợp thực hiện nhịp nhàng và kịp thời.
Ngoài ra, môi trường của khu bảo tồn đang chịu tác động của biến đổi khí hậu: nước biển dâng, xói lở bờ biển, ô nhiễm môi trường vùng ven biển…
Nhằm khắc phục những hạn chế trên, tỉnh Cà Mau đang từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, trong đó nổi bật là Quy chế quản lý khu bảo tồn biển ban hành giữa năm 2025, đây được xem là “kim chỉ nam” cho phát triển kinh tế biển xanh gắn với bảo tồn:
"Chúng ta cần đầu tư hạ tầng và nguồn lực cho công tác bảo tồn biển, cần đảm bảo được nguồn kinh phí ổn định lâu dài để phục vụ điều tra, quan trắc, phục hồi và phát triển kinh tế biển xanh. Định hướng quan trọng nữa là phát triển kinh tế bền vững cho cộng đồng dân cư ở khu vực bảo tồn biển, giúp người dân vừa ổn định cuộc sống, vừa trở thành lực lượng đồng hành bảo tồn.
Trong thời gian tới, tỉnh Cà Mau chú trọng giáo dục thế hệ trẻ, lồng ghép kiến thức về bảo tồn biển, đa dạng sinh học vào chương trình học, tổ chức hoạt động trải nghiệm tại khu bảo tồn biển, hình thành ý thức yêu biển và trách nhiệm bảo vệ môi trường biển ngay từ học đường."
Hoàn thiện cơ chế, tăng sức bật cho các khu bảo tồn biển
Còn tại tỉnh An Giang, ông Lê Hữu Toàn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết, khu bảo tồn biển Phú Quốc hiện nay có hơn 40.000ha, cùng với 260 loài san hô cứng, 160 loài cá rạn san hô và khoảng hơn 10.000ha thảm cỏ biển, được đánh giá lớn nhất Việt Nam. Đây là tiềm năng, thế mạnh để An Giang trong tương lai phát triển trở thành trung tâm kinh tế biển quốc gia.
Thời gian qua, khu bảo tồn biển Phú Quốc đã triển khai nhiều chương trình thiết thực nhằm bảo vệ tài nguyên và đa dạng sinh học biển. Nổi bật là hoạt động trồng và phục hồi rạn san hô tại những khu vực bị suy thoái; vệ sinh rạn san hô, thu gom ngư lưới cụ, rác thải nhựa dưới biển; đồng thời quan trắc, giám sát hệ sinh thái định kỳ và khoanh vùng bảo vệ nghiêm ngặt để phục hồi tự nhiên.
Song song đó, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức được đẩy mạnh thông qua nhiều hình thức, từ phối hợp với chính quyền, biên phòng, trường học đến các tổ chức xã hội nhằm vận động ngư dân, học sinh và doanh nghiệp cùng chung tay bảo vệ môi trường biển, hướng tới “nói không với rác thải nhựa”, phát triển du lịch xanh, bền vững.
Ngoài ra, khu bảo tồn còn hỗ trợ người dân vùng ven biển chuyển đổi sinh kế, phát triển các mô hình nuôi trồng thủy sản kết hợp du lịch sinh thái; hợp tác với các tổ chức quốc tế và viện nghiên cứu để phục hồi san hô, tái tạo nguồn lợi thủy sản. Công tác tuần tra, kiểm soát cũng được tăng cường, xử lý nghiêm các hành vi khai thác trái phép – góp phần gìn giữ môi trường biển xanh, sạch, vì mục tiêu phát triển bền vững.
Dù đã có những động thái quyết liệt, tuy nhiên hiện nay khu bảo tồn biển Phú Quốc cũng rơi vào cảnh tương tự tỉnh Cà Mau khi công tác bảo tồn chưa hiệu quả cao bởi nguồn nhân lực và tài chính bị hạn chế. Cũng vì thế, nhiều bãi biển, hệ sinh thái biển đang ngày một báo động bởi sự ô nhiễm của rác thải, nguồn lợi thủy sản đang vơi dần. Trước tình trạng này, hiện địa phương đã có những chỉ đạo nhằm bảo vệ và thúc đẩy phát triển kinh tế biển xanh, bền vững.
Ông Lê Hữu Toàn - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường cho biết:
"Hiện nay đang đề xuất từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù và bảo đảm nguồn lực tài chính bền vững cho công tác bảo tồn; Phát triển các mô hình du lịch sinh thái, nuôi biển thân thiện môi trường gần với sinh kế cộng đồng dân cư ven biển; Tăng cường công tác phối hợp liên ngành; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong giám sát, quản lý tài nguyên;
Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức, khuyến khích người dân, doanh nghiệp cùng tham gia bảo vệ và phát huy giá trị hệ sinh thái biển; Đối với các doanh nghiệp khi đầu tư vào khu bảo tồn biển buộc cam kết cùng cơ quan quản lý nhà nước tham gia và cam kết trách nhiệm trong công tác bảo tồn.”
Biển Việt Nam không chỉ là nguồn sống, mà còn là di sản thiên nhiên vô giá. Bảo tồn hôm nay chính là gìn giữ tương lai cho những thế hệ mai sau. Khi cộng đồng, doanh nghiệp và chính quyền cùng chung tay, các khu bảo tồn biển sẽ không chỉ là vùng cấm khai thác, mà trở thành hạt nhân của phát triển xanh, nơi thiên nhiên được hồi sinh, và con người được hưởng lợi từ chính những gì mình gìn giữ.