Giữa lòng phố cổ Hà Nội, có những con phố mang trong mình nhiều hơn một cái tên, nhiều hơn một nghề. Phố Thuốc Bắc – cái tên khiến người ta nghĩ đến thang thuốc, đến vị đắng dịu của cỏ cây – nay lại là nơi san sát những cửa hàng bán đồ kim khí, khóa, két sắt, inox...
Nhưng ít ai biết, nơi đây từng là “phố bút”, nơi những cây bút lông thủ công ra đời, viết nên một thời vang bóng của nghệ thuật thư pháp đất Thăng Long.
Thời Lê, phố Thuốc Bắc từng có những gia đình làm bút lông – thứ bút chuyên dùng để viết chữ Nho, viết đại tự, viết câu đối ngày Tết. Những nét chữ mang hồn dân tộc, mang ý nghĩa cầu chúc cho năm mới an lành, thịnh vượng… được tạo ra từ chính đôi tay của người thợ nơi đây như chia sẻ của nhà Hà Nội học Nguyễn Ngọc Tiến:
"Những ai muốn xin chữ thì các thầy đồ cho chữ và dùng các bút này để viết chứ không phải viết chữ Hán nhỏ li ti đâu. Nghề này cho đến cuối thế kỷ 19 đã lụi tàn rồi, còn rất ít nhà làm. Bởi vì lúc này các bút lông nhập khẩu từ Trung Quốc mang qua làm rất đẹp có nhiều kích cỡ khác nhau cho nên nghề làm bút lông thủ công ở phố hàng bút chỉ còn lại vài gia đình. Người ta cũng làm với chất lượng tốt giá thành rẻ nên tồn tại được".
Nghề làm bút lông tuy không ồn ào, không náo nhiệt, nhưng lại từng góp phần nuôi sống nhiều thế hệ người dân phố cổ. Và cứ mỗi dịp cuối năm, khi tết đến xuân về, cả khu phố Hàng Bồ gần đó lại rộn ràng với chợ chữ – nơi các nhà nho trải chiếu bán câu đối, viết tặng chữ, và bút lông – mực tàu – nghiên mực cũng theo đó mà tấp nập người mua.
Thời gian trôi, chữ Nho dần mai một, người xin chữ cũng thưa vắng. Nghề làm bút lông vì thế mà dần khuất bóng. Giữa nhịp sống hiện đại hôm nay, trên phố Thuốc Bắc chỉ còn một cửa hàng duy nhất còn giữ lại nghề: Tiệm bút lông Kim Dung – nơi mà ông chủ tiệm nay đã ngoài 70 tuổi vẫn cần mẫn từng ngày, giữ lửa nghề tổ:
"Nghề này thì đời các cụ sinh ra bác đã làm rồi. Ngày xưa đúng là làm sống được vì ngày xưa không phải bán lẻ như này. Ngày xưa các cụ nhà bác có đăng ký kinh doanh tư nhân thì ký với các công ty bách hoá, công ty tổng hợp đặt mình làm vỉ bút hàng ngày.
Tức là thời kỳ bao cấp kế hoạch hoá mà, người ta phân phối về các trạm thông tin các đoàn đội thì mình làm cho người ta, sau đó người ta phân phối theo tuyến của người ta, chứ còn bán lẻ không có, cửa hàng cũng không mở. Đấy là thời kỳ trước.
Sau này các cụ nhà bác già yếu không làm nữa, mà bác đi làm nhà nước rồi. Thế thì từ khi nhà nước mở cửa mà đúng lúc mình về hưu thì mình bới ra theo nghề các cụ để có thu nhập, giết thời gian rỗi. Chứ ngày xưa nó khác. Bây giờ sản xuất của bác chỉ tăng thu nhập sinh hoạt. Thợ thuyền làm gì có, mình mình làm".
Một mình trong cửa tiệm nhỏ, ông vẫn kiên nhẫn lựa từng nhúm lông, chẻ từng cán tre, tra ngòi, buộc chỉ... Những thao tác thuần thục như đã ăn sâu vào máu thịt. Hàng làm ra không bóng bẩy như bút Nhật, không hiện đại như bút Trung, nhưng ngòi vẽ vẫn chắc tay, mềm mượt – đủ dùng cho những nghệ nhân vẽ men ở Bát Tràng, hay người học thư pháp truyền thống:
"Hàng của mình thật sự ra không thể đẹp bằng hàng Nhật và hàng Trung Quốc được nhưng căn bản cái ngòi thì đảm bảo bằng nhau. Tức là ngòi để vẽ thì nó bằng nhau. Thứ hai là cái bút của mình làm cái mặt nạ sư tử thì phù hợp với người làm thủ công của mình.
Thế thì mình mới sống được. Chứ mình làm bút hiện đại như của Tàu không có khả năng, phải có nhà xưởng công nhân máy móc. Còn đây mình làm thủ công lắp ghép cái A cái B để đáp ứng cho bà con ở các làng nghề.
Ví dụ làng Bát Tràng họ vẽ men gốm, những cái của hoạ sĩ vẽ thì họ mua bút của Nhật của Trung còn những cái mà tô điểm chấm vào thì bút của mình đáp ứng được vì bút mình rẻ tiền mà. Có 5 nghìn/cái nhưng mua bút của Nhật cảu Tàu thì 40-50 nghìn/cái. Người ta mua bút đắt quá thì không thể ra sản phẩm rẻ tiền được".
Ngày nay, nguyên liệu cũng hiếm hơn. Muốn tìm lông mã gà cũng khó, vì ít người nuôi, ít ai cần. Nhiều cây bút giờ được làm theo đơn đặt hàng riêng. Mỗi cây bút không chỉ là sản phẩm thủ công, mà là kết tinh của một dòng chảy văn hóa đang dần lặng lẽ.
Có người đến tiệm Kim Dung để mua bút. Nhưng cũng có người tìm đến chỉ để ngắm nghía, trò chuyện, lắng nghe một câu chuyện cũ về nghề, về phố. Giữa phố phường hiện đại, nơi ồn ào của kim khí và hàng hóa công nghiệp, thì một góc nhỏ lưu giữ một phần hồn phố Thăng Long vẫn còn sáng đèn – nơi một người thợ già vẫn giữ trọn lòng với nghề truyền thống.