Đây được xem là cột mốc quan trọng trong việc hình thành hành lang pháp lý cho một loại hình tài chính phi truyền thống. Tuy nhiên, đi cùng cơ hội là nhiều thách thức cần được mổ xẻ kỹ lưỡng – từ khả năng tiếp cận vốn, bảo vệ nhà đầu tư, đến yêu cầu siết chặt kiểm soát rủi ro.
Cơ hội tiếp cận vốn mới nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro
P2P Lending – hay còn gọi là cho vay ngang hàng – là mô hình kết nối trực tiếp người có tiền nhàn rỗi với người cần vay, không thông qua trung gian tài chính như ngân hàng. Ở Việt Nam, mô hình này đã âm thầm tồn tại nhiều năm dưới hình thức trá hình như các công ty đầu tư, công ty tài chính cá nhân.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng, cho biết: "Chương trình thử nghiệm này dĩ nhiên rất đáng hoan hô vì tạo ra 1 hành lang pháp lý để kiểm soát được những hành động gian lận. Còn nếu không như bây giờ thì rất nhiều công ty trung gian dùng tất cả xảo thuật để lừa người dân cũng như doanh nghiệp đóng tiền vào rồi qua thủ đoạn lừa đảo đó để lấy tiền của người dân, tạo ra thiệt hại cho xã hội".
Theo ông Hiếu, cho vay ngang hàng không phải là một sáng kiến mới – thậm chí đã tồn tại từ thời cổ đại dưới các hình thức vay mượn dân gian. Tuy nhiên, dưới góc nhìn hiện đại, việc số hóa mô hình này cần có những điều kiện rất cụ thể để đảm bảo tính nh bạch và an toàn cho cả hai bên – người vay và người cho vay.
Một trong những ưu điểm lớn nhất của P2P Lending là khả năng cung cấp nguồn vốn cho các nhóm người vay khó tiếp cận với hệ thống ngân hàng. Ông Trần Nhật Đức, nhà đầu tư tài chính, nhấn mạnh: "Khi mở thêm hình thức mới thì dĩ nhiên sẽ có những tiêu chuẩn cho vay nhưng theo quan điểm của tôi sẽ thoáng hơn so với hoạt động cho vay truyền thống. Các khoản vay P2P lending ở các quốc gia xung quanh Việt Nam thì hướng tới các khoản vay vi mô, vay nhỏ hướng tới cá nhân hoặc các hộ kinh doanh vừa và nhỏ. Quan điểm của tôi thì nó rất cần thiết"
Ông Đức dẫn ví dụ thành công ở Thái Lan – nơi P2P Lending được triển khai qua hình thức sandbox tương tự Việt Nam và sau đó nhanh chóng phát triển mạnh, trở thành nguồn vốn quan trọng cho hàng triệu hộ kinh doanh vừa và nhỏ: "Ở Thái Lan, những nền tảng như Pear Power hay Money People đã hoạt động hiệu quả, hướng tới các khoản vay vi mô. Trong nền kinh tế tư nhân thì có sự tham gia một lượng lớn các DNNVV hay các hộ gia đinh. Với hình thức này tôi đánh giá sẽ rất phù hợp tại VN trong thời gian tới khi mà các đối tượng đó có thêm kênh tiếp cận vốn khác kênh truyền thống hiện tại vì họ không có tài sản đảm bảo hay không có phương thức nào đấy chứng nh hiệu quả kinh doanh"
Cần hành lang pháp lý rõ ràng và kiểm soát chặt chẽ
Trái với sự hào hứng của người đi vay, các chuyên gia cảnh báo nhà đầu tư nhỏ lẻ cần cẩn trọng khi tham gia mô hình này. Ông Nguyễn Quang Đông, nhà đầu tư cá nhân, chia sẻ: "Hiện tại chúng ta nhìn thấy một trong những vấn đề lớn nhất của P2P Lending là rủi ro trong việc nhà đầu tư có thể rơi vào tình trạng không thu hồi được vốn. Điểm mấu chốt quan trọng là khả năng lãi suất có thể coi là tốt hơn nhưng với chúng tôi thì quan ngại về rủi ro liên quan tới vốn nhiều hơn so với lợi ích mang lại về lãi suất"
Ông Đông cho rằng, mô hình này chỉ có thể phát huy nếu đi kèm với một hệ thống kiểm soát chặt chẽ, nh bạch thông tin, định danh cá nhân rõ ràng, và có chế tài xử lý khi xảy ra tranh chấp: "Với kinh nghiệm của chúng tôi quan sát ở các quốc gia khác từng làm thì cơ chế kiểm soát hình thức này phải thực sự chặt chẽ và phải có bộ quy định chế tài riêng để quản lý hình thức này".
TS. Nguyễn Trí Hiếu cũng đặc biệt lưu ý rằng tại Mỹ – nơi ông có nhiều năm làm việc trong ngành ngân hàng – P2P Lending không được phép hoạt động rộng rãi: "Bên Mỹ không cho phép cho vay ngang hàng vì luật lệ của Mỹ khi cho vay phải có hợp đồng cho vay và phải tuân thủ quy định pháp luật rất chặt chẽ. Trong khi cho vay ngang hàng ở Việt Nam dù cho Chính phủ kiểm soát thế nào đi chăng nữa thì mình cũng không thể kiểm soát được hợp đồng cho vay. Chính vì thế nó vẫn có thể tạo ra nhiều rủi ro cho nhà đầu tư cũng như bên đi vay. Chính vì vậy ở bên Mỹ cho vay ngang hàng không được phép".
Ông nhấn mạnh rằng trong giai đoạn đầu thử nghiệm, Chính phủ cần “cực kỳ cẩn trọng” khi lựa chọn các đơn vị trung gian tham gia, tránh để những công ty có tiền sử gian lận hoặc thiếu nh bạch chen chân vào thị trường này.
Tất cả các chuyên gia đều đồng thuận rằng sandbox là bước khởi đầu hợp lý. Tuy nhiên, việc chuyển từ thử nghiệm sang thực tế cần đi kèm với những chuẩn mực pháp lý cụ thể. Một đề xuất đáng chú ý đến từ ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối R&D Khách hàng cá nhân của Chứng khoán Yuanta Việt Nam.
Ông cho rằng cần gắn trách nhiệm của các ngân hàng vào mô hình P2P Lending để tăng độ an toàn cho người cho vay: "Điều quan trọng nhất là các ngân hàng sẵn sàng chia sẻ thông tin như CIC để người dân có thông tin tham khảo. Cái này tôi nghĩ là vấn đề cốt yếu nhất trong việc triển khai P2P. Cái vấn đề cốt yếu thứ 2 liên quan đến vấn đề pháp lý xử lý trong trường hợp không có khả năng thanh toán thì ngân hàng có thể là 1 trong những đơn vị trung gian.
Hiện nay các quy định còn khá chung chung. Để mô hình thực sự phát triển, Chính phủ cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý – đặc biệt là các quy định về trách nhiệm pháp lý khi xảy ra rủi ro, cách xử lý nợ xấu và nh bạch điểm tín dụng cá nhân. Hiện nay nhiều ngân hàng trên thế giới đã ứng dụng blockchain vào cho vay P2P. Tôi nghĩ tại Việt Nam cũng nên trong quá trình triển khai về mặt pháp lý thì cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ để tăng thời gian xử lý quy trình cho vay thay vì xử lí theo mô hình truyền thống hiện tại".
Việc thử nghiệm P2P Lending là một bước đi can đảm nhưng cần thận trọng. Trong bối cảnh Việt Nam đang cần đa dạng hóa nguồn vốn và tăng cường hỗ trợ khu vực tư nhân, mô hình này mang lại nhiều hứa hẹn. Nhưng đồng thời, nó cũng là "con dao hai lưỡi" nếu thiếu sự giám sát kỹ lưỡng. Các chuyên gia đã chỉ ra rằng: để thành công, cần sự phối hợp ba bên – Chính phủ, công nghệ và ngân hàng – cùng nhau xây dựng một mô hình cho vay an toàn, nh bạch và phù hợp với đặc thù thị trường Việt Nam.