Con đường ấy đã đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc như một huyền thoại với biết bao kỳ tích được làm nên từ những con tàu không số.
Tàu không số - Bí mật làm nên kỳ tích
Ngày 11/10/1962, chiếc tàu gỗ gắn máy đầu tiên, số hiệu 41, mang tên “Phương Đông 1” của Đoàn 759 chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) vào Cà Mau; 19/10/1962, tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau). Hơn 60 năm đã trôi qua, quay trở lại nơi xuất bến của con tàu Phương Đông 1 năm ấy, nay đã trở thành một di tích cấp quốc gia đang được đầu tư xây dựng trở thành khu tưởng niệm các chiến sĩ hải quân.
Những người lính đã từng tham gia đoàn tàu không số vẫn bồi hồi, tự hào mỗi dịp về thăm lại nơi cột mốc thiêng liêng này với tên gọi thân thương Bến số 0, như những cảm xúc của ông Ngô Văn Trung, tham gia đoàn tàu không số từ tháng 7/1962, và hiện là chủ tịch hội Cựu chiến binh đoàn tàu không số Đồ Sơn, Hải Phòng:
"Tàu không số toàn quốc có khoảng 5 cái điểm này, nhưng đây là nơi xuất phát đầu tiên của đoàn tàu không số, mẫu này là mẫu đẹp nhất. Ngày xưa tàu Phương Đông 1, đoàn chú nhiều anh hùng lắm, toàn gọi là bến số 0, tàu không số, tức là đi đầu tiên đấy. Nó là một trong 5 năm con đường giải phóng ền nam, đường HCM trên biển….huyền thoại đấy chứ, số môt không hai của VN mình trên chiến trường quốc tế, vì tính bí mật của mình, với con người VN quá quả cảm".
Tính bí mật của tàu không số đã làm nên những kỳ tích trên hành trình mênh mông của biển cả. Ngay từ cái tên, Tàu không số” không phải vì không có số, mà vì mỗi con tàu có rất nhiều số..., để đảm bảo tính bí mật trên biển của mình.
Những chuyến tàu không số vận chuyển vũ khí chi viện cho ền Nam giai đoạn đầu từ 1961-1963 đều là tàu gỗ, đi sát bờ, rồi tới tàu gỗ gắn máy đi sát ven biển, đã giúp vận chuyển được 178 tấn vũ khí chi viện cho ền Nam.
Những năm 1963-1965, là giai đoạn những chuyến tàu không số bằng sắt có trọng tải lớn, đi xa bờ, đối mặt với nhiều hiểm nguy hơn nhưng cũng là những chuyến tàu mang lại kỳ tích lớn hơn trên con đường vận chuyển chiến lược này. Chỉ trong 2 năm, những chuyến tàu không số ấy đã vận chuyển được 80 chuyến với hơn 4000 tấn vũ khí cho chiến trường, góp phần làm nên những chiến thắng lớn của quân dân ền Nam như chiến thắng Ấp Bắc (1963), Núi Thành, Vạn Tường (1965)...
Ông Nguyễn Đình Phan cựu chiến binh đoàn tàu không số Đồ Sơn kể lại: "Thời kỳ mới đầu tiên thành lập thì chỉ có ăn uống, xuống tàu chứ không tiếp xúc với người trên bờ, đi là do bộ Tổng tham mưu quyết định, mà thông tin thì chỉ có thuyền trưởng và chính trị viên biết, chứ thủy thủ không hề biết, nên gọi là tuyệt mật, ngay bản thân chiến sĩ đi những chuyến đầu tiên còn không biết là mình đi làm gì.
Ven bờ nó dùng tàu nhỏ, ra khơi nó dùng tàu to, tuần tra liên tục, nên bí mật không chỉ trên đường đi, mà về thông tin liên lạc điều khiển con tàu làm nó không phát hiện ra được. Nói đơn giản là bí mật nhưng nó có nhiều bí mật lắm chứ".
Giữ bí mật giữa trùng khơi – Những hải trình làm nên kỳ tích
Biến sự mênh mông, rộng lớn của biển cả thành lợi thế bí mật của mình, những đoàn tàu không số thiên biến vạn hóa khiến địch không thể ngờ tới.
Từ việc giả danh tàu đánh cá, sơn lại tàu khi bị lộ, giả trang từ quần áo, trang phục phù hợp…, câu chuyện cải dạng trên những con tàu không số thực sự hấp dẫn và ly kỳ hơn cả những bộ phim phiêu lưu, mạo hiểm dài tập. Tuyến đường cũ bị lộ, lập tức những hải trình mới được mở ra, những bến trả hàng bị lộ, lập tức những bến mới được lập ra…
Cứ thế, những con người quả cảm trên mỗi chuyến tàu không số chấp nhận đương đầu với mọi thử thách trên biển để đưa vũ khí cập bến an toàn. Trên hải trình mênh mông ấy, những con tàu không số tuy vô cùng bé nhỏ, nhưng lại mang trong mình sức mạnh tiềm tàng của sự bí mật, dù trước sóng dữ, biển động, trước mưa bão, mưa bom… vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ và giữ sự bí mật của con đường vận chuyển chiến lược trên biển.
Các cựu chiến binh như ông Nguyễn Thanh Hải, ông Nguyễn Đình Phan đều không thể quên những hải trình đặc biệt như thế trong cuộc đời làm chiến sĩ trên đoàn tàu không số của mình:
"Các chú thường đi vào mùa sóng to gió lớn biển động, lúc bấy giờ sẽ hạn chế được sự theo dõi và hoạt động của địch, nên lính của đoàn tàu này chịu được sóng to gió lớn rất tốt, chứ trời yên biển lặng mình đi là lộ ngay, mình tàu nhỏ mà lại sóng to gió lớn, nên những chuyến hành trình đấy đều gian nan vất vả cả".
Nhưng đúng vào thời điểm cuộc chiến cam go nhất, công tác vận chuyển trên biển đang phát triển thuận lợi thì đường Hồ Chí Minh trên biển bị lộ.
Ngày 16/2/1965, tàu 143 chở 63 tấn vũ khí khi vào bến Vũng Rô- Phú Yên thì bị địch phát hiện, tấn công và từ đó địch đã phát hiện ra con đường vận chuyển vũ khí bằng đường biển của ta. Cuộc chiến giữ bí mật của những con tàu không số chuyển sang một giai đoạn mới, cam go, khốc liệt và nguy hiểm muôn vàn, song nhờ sự quả cảm và tính bí mật được đẩy lên cao độ mà những kỳ tích mới tiếp tục được làm nên từ chính những chuyến tàu huyền thoại này.
Giai đoạn vận chuyển 1969-1972 là thời kỳ địch phong tỏa ngày càng nghiêm ngặt. Nhưng địch càng phong tỏa, ta càng tìm nhiều phương thức vận chuyển vũ khí vào chiến trường Miền Nam. Không chỉ vũ khí, mà những chuyến tàu không số vận chuyển bộ đội vào chi viện sức người cho chiến trường ền Nam khiến địch không thể ngờ tới.
Sự thần tốc, hiệp đồng chặt chẽ giữa quân và dân, giữa từng khâu trên biển, dưới bến như một guồng máy hoàn hảo mà ông Phan Thanh Hải mỗi khi nhớ lại đều không giấu nổi sự tự hào: "Hàng của các chú là hàng biết đi biết nói, nên xuống hàng cũng rất nhanh, giải phóng hàng cũng rất nhanh. Xuống tàu 15-20 phút là xong ngay. Mấy trăm người đi mấy cái cầu xuống tàu thì chỉ 15-20 là đi ngay, trong thời kỳ thần tốc nó là như vậy, không có thời gian để nghỉ, còn máy móc sự cố trừ trường hợp không khắc phục được thì chịu, còn khắc phục được là đi, ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương đấy, ngày ấy là như vậy."
Trải qua 14 năm (1961-1975) vận chuyển, chi viện cho chiến trường ền Nam, đoàn tàu không số của Binh chủng Hải quân đã thực hiện gần 2000 chuyến đi; vận chuyển gần 153 nghìn tấn vũ khí; hơn 80 nghìn lượt người, với đoạn đường gần 4 triệu hải lý.
Ngoài ra, các chiến sĩ trên đoàn tàu không số đã trực tiếp chiến đấu với 300 lượt tàu địch; 1200 lượt máy bay; khắc phục trên 4000 quả thủy lôi; bắn chìm 10 tàu và bắn rơi 5 máy bay và bắn bị thương nhiều chiếc khác, tiêu diệt hàng hàng trăm tên địch; vượt qua hơn 20 cơn bão để vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường ền Nam.
Trên hải trình mênh mông và đầy thử thách ấy, tính bí mật của những chuyến tàu không số đã làm nên kỳ tích, cùng với tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trên bộ, kết nối hậu phương lớn ền Bắc với tiền tuyến lớn ền Nam, vận chuyển kịp thời, hiệu quả vũ khí và lực lượng, góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân 1975.
TÌNH YÊU SON SẮT CỦA NGƯỜI VỢ LÍNH TÀU KHÔNG SỐ: CHỜ MỘT NGƯỜI, SUỐT MỘT THỜI THANH XUÂN
Trong thời chiến, các chiến sĩ của Đoàn tàu Không số không đều phải đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu đôi lứa. Dù chỉ có những cuộc gặp mặt xảy ra chớp nhoáng, những đám cưới diễn ra trong vội vàng nhưng với niềm tin son sắt, sự kiên nhẫn và hi sinh của những người vợ, người mẹ… mà Ngày trở về của các chiến sĩ hải quân chính là Ngày Đoàn tụ của gia đình, là Ngày mà đất nước đã hoà bình.
Phóng viên đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Tâm – vợ của Cựu chiến binh Lê Xuân Khảm, người duy nhất sống sót trên con tàu C69 về cuộc hôn nhân từ thời chiến đến thời bình:
PV: Xin cô chia sẻ về lần gặp gỡ và nên duyên của cô với cựu chiến binh Lê Xuân Khảm?
Bà Nguyễn Thị Tâm: Gặp gỡ ông ý, đấy là cái duyên, khi đó tôi là sinh viên của trường Sư phạm. Tình cờ, khi ông ấy (Cựu chiến binh Lê Xuân Khảm) ra trường thăm em gái, nhưng em gái không có nhà, tôi ra mời nước ông ý. Mời nước xong, tôi định đi vào trong nhà nhưng ông ý bảo cô cứ ngồi đi chơi. Câu chuyện bắt đầu từ đấy. Sau đó, ông ấy gửi thư theo đuổi rất quyết liệt và tôi nhận lời yêu ông ý.
Đám cưới của chúng tôi diễn ra vô cùng giản dị. Lúc đấy tôi công tác ở phòng giáo dục thành phố Vinh, cho nên chỉ bảo: “Anh ơi, chỉ mua cho 5 bông hoa lay-ơn và một cái áo dài để mặc hôm đám cưới.” Bố tôi cũng bảo, anhlà lính bộ đội cụ Hồ, lương chỉ có 5.000 đồng thôi nên con không được đòi hỏi gì. Bố tôi cũng cho một tút thuốc lá sông Cầu và 1 cân kẹo để tổ chức đám cưới.
Chúng tôi đến với nhau thời điểm đó cũng rất là khổ. Bởi vì là ông ấy vẫn còn đi chiến đấu. Cưới xong cách nhau 10 năm mới được gặp lại, rất là khổ.
PV: Trong những lần hiếm hoi gặp chồng trong suốt quá trình chú tham gia chiến đấu giải phóng ền Nam thống nhất đất nước và làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam puchia , lần gặp nào khiến cô cảm thấy xúc động nhất?
Bà Nguyễn Thị Tâm: Có một dịp, tôi mới xin cơ quan để vào gặp chồng ở Long Xuyên. Lúc bấy giờ, vào đến nơi, tôi ngỡ ngàng vì xung quanh nước mênh mông. Tôi lại là con gái ền Bắc, lần đầu tiên vào ền Nam, không biết đường đi lối lại như thế nào, cũng không có điện thoại, cứ đi lần mò cuối cùng cũng đến được tới nơi, mừng quá.
Ông ấy làm chính trị viện nên cứ phải đi giảng dạy suốt, mình không được gặp. Đến nơi, khi hỏi thăm đơn vị biết tôi là vợ thủ trưởng Lê Xuân Khảm, người ta mới đón tiếp. Tôi lúc đó mới òa lên khóc, vì thấy nơi làm việc của chồng sao khổ thế, xung quanh là nước mênh mông, lũ lụt mà sao đơn vị đóng ở chỗ như thế này.
Chúng tôi cũng được gặp nhau 4-5 ăn đêm rồi thì lúc bấy giờ lại đi chiến đấu luôn. Những đêm đi chiến đấu không bao giờ nói chuyện với vợ được một tí nào. Tôi tủi thân lắm. Có một cháu ở cùng đơn vị thấy thương cô từ Bắc vào Nam mà chồng cứ đi suốt nên mới lên tâm sự trò chuyện với cô cho vui.
Sau đó, ông ý bảo mai anh phải đi Phnom Penh rồi, em về đi. Trong đêm đó, ông cứ nói hết chuyện chiến đấu nọ kia, chẳng nói chuyện với vợ được tí nào. Tôi bảo là vâng, em về. Ông ý bảo sẽ đưa em về tới Cần Thơ thôi, rồi anh phải quay đi chiến đấu luôn. Lúc đấy tôi rất buồn, ông ý phát hiện được nên ông ý cố đưa tôi đến Huế và đến tới Tp Huế thì chắc chắn là không được nữa rồi nên lúc đấy bắt đầu buông. Biền biệt từ đấy đến chục năm sau mới gặp lại.
Điều khiến tôi xúc động và nhớ nhất là lần ông ý về thăm nhà. Hồi đấy mình làm ăn mì với bo bo. Có một dịp, ông gọi điện đàm với gửi lá thư, bảo anh chuẩn bị về. Ngày đó, thư đến không đúng ngày. Hôm về, ông dắt anh em chiến sĩ về, tưởng ông ý về bình thường thôi nhưng lại có cả chiến sĩ, lúc đó nhà không còn gạo nữa, chỉ có khoai. Tôi rất lo lắng, vội chạy sang hàng xóm vay gạo để nấu cơm. Ông ý ăn vội vội vàng vàng bữa cơm rồi bảo Anh đi đây. Lúc đấy tôi buồn quá, chưa kịp gặp, nói chuyên mà ông đã đi. Chẳng bao giờ tình cảm đầy đủ, câu chuyện trọn vẹn được.
PV: Sau những nỗi tủi thân, buồn vì nhớ thương chồng, cháu còn nhìn thấy trong mắt cô lấp lánh niềm tự hào về cựu chiến binh Lê Xuân Khảm?
Bà Nguyễn Thị Tâm: Sau này, khi ông ấy về làm thủ tục về trường hàng hải, lúc bấy giờ 2 vợ chồng mới có thời gian nói chuyện từ A đến Z về cuộc hành trình và cuộc đời của ông ấy. Lúc đấy, tôi tự nhủ, mình sẽ buông bỏ hết mọi chuyện giận hờn.
Tôi quá thương chồng và nói với ông ấy, khi nào ông có thời gian, ông đưa tôi vào thăm chiến trường, nơi ông từng chiến đấu, nơi mà có biết bao nhiêu người anh em của đã hy sinh mà chỉ còn có mình ông. Ông ý bảo, hứa với em, khi về hưu 2 vợ chồng sẽ đi một chuyến bằng ô tô vào thăm chiến trường xưa và như vậy mới nói hết được những gì về cuộc đời mình.
Đến đời con, đời cháu, tôi sẽ là người thuyết trình lại cuộc đời của ông ý. Tôi đã nghe nhiều câu chuyện về ông ý nhưng không hết được nỗi xúc động. Càng đi tôi càng thấy tình cảm của người chiến sĩ sao lại vô bờ bến. Tôi cảm thấy vô cùng tự hào về ông ý. Những khi đại diện trường ĐH Hàng hải đến thăm, tôi cảm thấy tự hào khi có được người chồng vừa là giáo viên vừa là chiến sĩ đi chiến đấu mang lại vinh quang cho tổ quốc.
Đặc biệt, ông là người đi chắp vá lại những câu chuyện như câu chuyện của anh Hải Hồ, anh Loan. Tất cả câu chuyện của những con người đó tôi đều được gặp trực tiếp tại căn nhà này.
PV: Vâng. Xin cảm ơn cô!