Đây là bước cải cách quan trọng nhằm nh bạch hóa nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh công bằng. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai, không ít hộ kinh doanh đang lo lắng trước những áp lực mới về sổ sách, chứng từ và nguy cơ phát sinh chi phí, rủi ro pháp lý.
Loay hoay tồn kho, công nợ khi bỏ thuế khoán
Với cơ chế thuế khoán trước đây, phần lớn hộ kinh doanh chỉ cần nộp một khoản thuế cố định, ít phải quan tâm đến việc lưu trữ hóa đơn, quản lý tồn kho hay đối chiếu công nợ.
Nay, khi chuyển sang kê khai theo doanh thu thực tế, yêu cầu về chứng từ, sổ sách, phần mềm quản lý… trở nên bắt buộc. Theo các hộ kinh doanh, với những hộ đã hoạt động cả chục năm, lượng hàng tồn kho, công nợ cũ chưa được chuẩn hóa dữ liệu càng khiến việc chuyển đổi thêm phức tạp.
Chia sẻ của chị Ngọc Phương: "Về nguyên tắc, chúng tôi hoàn toàn ủng hộ chính sách kê khai thuế theo doanh thu của Nhà nước, tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tế, doanh nghiệp gặp một số khó khăn. Thứ nhất là vấn đề tồn kho khi chuyển từ hình thức thuế khoán sang kê khai.
Việc lập báo cáo đầu vào - đầu ra gặp vướng mắc do dữ liệu tồn kho cũ chưa được chuyển tiếp đầy đủ sang hệ thống hiện tại. Bên cạnh đó, doanh nghiệp đã hoạt động 17–18 năm nên còn nhiều công nợ cũ tồn đọng, và hiện chúng tôi gặp khó khăn trong việc xử lý, đối chiếu và chuyển tiếp các khoản công nợ này theo quy định mới".
Những khó khăn này, nếu không có hướng dẫn cụ thể và chính sách “đệm”, rất dễ biến sai sót hành chính thành rủi ro bị truy thu, xử phạt, nhất là trong giai đoạn đầu khi hộ kinh doanh còn đang loay hoay thích nghi.
So với phương án 200 triệu trước đây, ngưỡng 500 triệu đồng rõ ràng đã “nới” không gian cho hộ kinh doanh. Tuy nhiên, với rất nhiều hộ, chỉ riêng vốn đầu tư ban đầu đã tiệm cận vài trăm triệu, chưa kể các chi phí phát sinh trong quá trình vận hành.
Một hộ kinh doanh tại phố Hoàng Cầu, Hà Nội bày tỏ: "Mức doanh thu 500 triệu đồng/năm phải kê khai thuế theo quý hiện nay là khá thấp. Với các hộ kinh doanh nhỏ lẻ như chúng tôi, riêng tiền vốn ban đầu đã có thể vượt mốc đó, chưa kể chi phí nhân công, mặt bằng và nhiều khoản phát sinh khác. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị cơ quan Nhà nước xem xét nâng ngưỡng doanh thu phải kê khai lên mức hợp lý hơn, để các hộ kinh doanh nhỏ có thể tiếp tục duy trì hoạt động, tránh thua lỗ và yên tâm phát triển lâu dài."
Ngưỡng thuế còn thấp
Dù hiện nay ngưỡng đã được đề xuất nâng lên 500 triệu đồng, nhưng tâm lý lo ngại vẫn còn nguyên: càng sớm bước vào diện kê khai, chi phí tuân thủ càng cao, từ thuê kế toán, mua phần mềm, in hóa đơn điện tử, cho đến thời gian, công sức bỏ ra cho thủ tục hành chính.
Theo các chuyên gia kinh tế, bỏ thuế khoán là chủ trương đúng đắn để chống thất thu ngân sách, song nếu không đồng thời đơn giản hóa thủ tục và giảm chi phí tuân thủ, cải cách thuế rất dễ trở thành gánh nặng với khu vực kinh doanh nhỏ lẻ.
Từ thực tiễn đó, ông Phạm Văn Hùng – Ban Pháp chế, VCCI – cho rằng, Nhà nước cần thiết kế một giai đoạn chuyển tiếp đủ dài và đủ an toàn, trong đó không xử phạt hành chính ngay với các lỗi về hình thức, mà chủ yếu là hướng dẫn, nhắc nhở.
Ông cũng nhấn mạnh việc so sánh ngưỡng chịu thuế của hộ kinh doanh với ngưỡng chịu thuế của người làm công ăn lương, để đảm bảo công bằng xã hội: "Có thể so sánh với mức ễn thuế thu nhập cá nhân đối với người làm công ăn lương từ năm 2026: ngưỡng chịu thuế được nâng lên khoảng 15,5 triệu đồng/tháng, tương đương 186 triệu đồng/năm. Nghĩa là người lao động có thu nhập đến mức này sẽ không phải nộp thuế. Từ đó, chúng tôi cho rằng ngưỡng doanh thu chịu thuế của hộ kinh doanh cũng cần được tính toán lại, theo hướng cho phép hộ kinh doanh được giữ lại một phần lợi nhuận để trang trải chi phí sinh hoạt và duy trì hoạt động, tương tự như người làm công ăn lương được giữ lại phần thu nhập tối thiểu phục vụ đời sống."
Quan điểm xuyên suốt ở đây là: hộ kinh doanh cũng cần được bảo đảm một mức thu nhập tối thiểu trước khi phải thực hiện nghĩa vụ thuế, tương tự như người lao động hưởng lương.
Ở góc nhìn phát triển kinh tế dài hạn, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng, nếu ngưỡng quá thấp, hộ kinh doanh sẽ có xu hướng “né mốc”, kìm hãm tăng trưởng, thậm chí thu hẹp quy mô để tránh rơi vào diện phải kê khai, nộp thuế – điều này vô hình trung làm giảm động lực phát triển của khu vực kinh tế vốn rất năng động này.
Muốn khuyến khích hộ kinh doanh chính thức hóa hoạt động, mạnh dạn mở rộng quy mô, thì ngưỡng chịu thuế cần đủ rộng, ít nhất ở mức 600–700 triệu đồng/năm: "Ngưỡng doanh thu tôi nghĩ nên nới ngưỡng này lên một chút để tạo không gian rộng các hộ kinh doanh doanh nghiệp nhỏ và vừa có cơ hội để họ có những ý tưởng kinh doanh tốt họ không bị gánh nặng thuế nặng nề...
Do đó tôi cho rằng nên nới rộng ra khoảng 600-700 triệu. Theo tôi nghĩ mức này sẽ tạo điều kiện trong 10 gian rộng hơn cho hộ kinh doanh hoạt động và cảm thấy là Nhà nước quan tâm rất thỏa đáng và họ cũng muốn đầu tư nhiều hơn".
Nâng ngưỡng chịu thuế lên 500 triệu đồng là bước điều chỉnh đáng ghi nhận, thể hiện sự chia sẻ của Nhà nước với khu vực hộ kinh doanh. Tuy nhiên, để chính sách thuế thực sự đi vào cuộc sống, điều quan trọng hơn cả vẫn là cách triển khai: từ thủ tục đơn giản, chi phí tuân thủ hợp lý, đến một giai đoạn chuyển tiếp đủ an toàn.
Khi hộ kinh doanh được “nới” gánh nặng, được hỗ trợ để tuân thủ tốt hơn, thì thuế không chỉ là nghĩa vụ, mà còn trở thành nền tảng cho một môi trường kinh doanh nh bạch, bình đẳng và bền vững./.