Người Hà Nội xưa cưới hỏi ra sao?

Mỗi đám cưới không chỉ là chuyện lứa đôi, mà còn phản ánh nếp sống, gu thẩm mỹ và tinh thần của một thời. Ở Hà Nội, cưới hỏi xưa từng rất cầu kỳ, từ nghi lễ đến cỗ bàn, từ thiệp mời đến xe hoa. Nhưng theo dòng chảy xã hội, mọi thứ đã dần đổi thay.

Vậy người Hà Nội xưa cưới hỏi ra sao? Và những gì còn lại đến hôm nay?

Tục lệ ăn hỏi hay đám cưới ở khắp các vùng ền trên đất Việt Nam khá giống nhau vì đời vua Lê Thánh Tông, nghi thức, nghi lễ chính thức được đưa vào Quốc triều Hình luật, dân cứ thế mà theo.

Các bước được ghi rõ trong chương Hộ hôn bào gồm: Lễ nghị hôn (tức là lễ chạm mặt hay dạm hỏi), Lễ định thân (hỏi tên tuổi cô gái, đã kết hôn lần nào chưa), Lễ nạp trưng (dẫn đồ cưới) và Lễ thân nghinh (tức là lễ đón dâu).

Xưa không bao giờ cưới hỏi trong mùa hè nóng bức vì sợ cỗ sẽ ôi thiu nên thường tổ chức vào mùa thu và xuân, bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 3 âm lịch. Vì tháng 8 nhiều nhà dựng vợ gả chồng cho con nên dân gian gọi là mùa chim làm tổ.

Ảnh: Dân trí

Tuy nghi thức, nghi lễ như nhau song lễ vật, cỗ cưới giữa các vùng ền lại khác nhau. Ở Hà Nội, lễ vật ăn hỏi mang sang nhà gái,nếu vào mùa thu không thể thiếu cốm và hồng, gia đình khá giả còn thêm lợn sữa quay.

Vì nhiều tục nhiêu khê bị dư luận xã hội cho là hủ tục khi xã hội văn nh hơn nên trong nửa đầu thế kỷ 20, việc cưới hỏi ở Hà Nội có nhiều thay đổi. Từ những năm 1920, lễ vật ăn hỏi có thêm thiếu lá điếu. Cũng từ những năm này, Hà Nội mời cưới bằng thiếp, kèm theo gói chè nhỏ và hạt sen. Khởi xướng việc mời thiếp là nhà tư sản Bạch Thái Bưởi khi ông tổ chức cưới con.

Và đám cưới này cũng là đám cưới đầu tiên không tổ chức ở tư gia mà tổ chức ở khách sạn. Từ những năm 1920 đến năm 1940, Hà Nội có tục mừng đám cưới bằng đôi câu đối. Chữ thì nhờ các nhà Nho viết rồi mang ra phố Hàng Trống thuê thợ thêu.

Đầu những năm 1930 lệ đón và đưa dâu bằng xe song mã được thay bằng ô tô, trên mui xe trang trí hoa tươi và kết dây băng bằng lụa mầu. Đi sau ô tô là đoàn xe tay của nhà trai và nhà gái. Chú rể cũng không mặc áo dài lam đeo thẻ ngà mà nhiều người mặc comple.

Cũng trong thời kỳ này một số đám cưới  đã chụp ảnh làm kỷ niệm. Trước đó hôn lễ thường diễn ra vào chiều muộn vì đó là khoảng thời gian dương qua, âm lại, âm dương giao hòa là thuận theo lẽ đất trời, tuy nhiên vào giờ này gây ra bất tiện cho khách nên các gia đình Hà Nội thay vì chiều muộn, họ xem giờ tốt tiến hành hôn lễ. 

Đám cưới ở Hà Nội thập niên 1940 - 1950 (Ảnh: Dân trí)

Tổ chức đón dâu ăn cỗ ở phòng cưới xuất hiện năm 1932, nguyên do không phải vì các gia đình có diện tích chật chội hay theo văn nh của Pháp, nó ra đời từ nhu cầu của người nông thôn ra Hà Nội làm ăn sinh sống. Trai gái các ền quê gặp nhau đi tới hôn nhân cần phải có một chỗ để tổ chức và  bà Cả Tròn ở 21 phố Phùng Hưng có sáng kiến mở dịch vụ cho thuê phòng cưới, phòng tân hôn.

Ngoài chu đáo nghi thức, nghi lễ các gia đình  ở Hà Nội rất được chú trọng để tránh lời ong tiếng ve. Với nhà giàu, mâm cỗ bao giờ cũng phải đủ bốn bát, sáu đĩa lại có thêm hoa quả tráng ệng hay đĩa chè kho. Cỗ cưới nhà nghèo ít đĩa ít bát hơn nhưng không thể thiếu được thịt gà luộc và xôi gấc, hai món biểu trưng cho sự thịnh vượng, may mắn và hạnh phúc.

Ngày nay quan niệm cưới hỏi ở Hà Nội khác xa ngày xưa, chỉ như cuộc liên hoan nên nghi thức, nghi lễ rất đơn giản và cỗ cưới không cầu kỳ. Điều này phù hợp với một xã hội công nghiệp!