Ngõ chợ Đồng Xuân: Không chỉ là ăn, mà là sống

Nằm khiêm nhường bên hông chợ Đồng Xuân, một con ngõ nhỏ chỉ dài hơn 200 mét lại trở thành điểm hẹn quen thuộc của biết bao người yêu ẩm thực Hà Nội.

Không chỉ nổi tiếng với những món ăn dân dã đậm đà hương vị xưa, nơi đây còn lưu giữ những câu chuyện đời thường mộc mạc, chan chứa tình người. 

BÊN DÒNG THỜI GIAN

Giữa nhịp sống hối hả của phố cổ Hà Nội, nơi những tòa nhà hiện đại và dòng người không ngừng chuyển động, vẫn còn một góc nhỏ yên bình, nơi ký ức và hương vị thời gian được lưu giữ một cách mộc mạc, chân thành – đó là ngõ chợ Đồng Xuân.

Dài chỉ khoảng 200 mét, con ngõ nhỏ này nối hông chợ Đồng Xuân với phố Hàng Chiếu, nhưng lại gói ghém trong mình cả một kho tàng văn hóa ẩm thực và ký ức đô thị đầy sống động.

Khi hỏi người dân và tiểu thương lâu năm về lịch sử ngõ chợ, ai cũng có câu trả lời riêng, nhưng điểm chung là: nó đã có từ rất lâu. Có người cho rằng ngõ xuất hiện từ khi Hà Nội còn là những con đường đất đỏ, có người nói bà nội mình đã từng gánh bún rong ở đây từ thời Pháp thuộc.

Hàng quán nối nhau san sát trong con ngõ chỉ dài khoảng 200m

Dù không có mốc thời gian rõ ràng, nhưng điều dễ thấy là ngõ chợ Đồng Xuân đã tồn tại cùng hơi thở của phố cổ, là một phần trong đời sống thường nhật của người Hà Nội:

"Chị năm nay 52 tuổi rồi thì ngõ ít nhất phải có từ 50 năm".

"Cũng phải trên 50 năm".

"Sinh ra lớn lên chị đã thấy có rồi".

"Khi có TP Hà Nội thì nơi đây đã có rồi".

"Có từ thời cha ông để lại cơ, vì ngày xưa bà nội em đã bán bún dọc mùng ở đây rồi".

Chỉ với vài bước chân, du khách như lạc vào một thiên đường ẩm thực thu nhỏ, nơi bún chả que tre, bún ốc, ốc chuối đậu, chè sen, bánh tôm, nộm bò khô... hiện diện dày đặc. Mỗi món là một lát cắt tinh tế của ẩm thực Hà Nội.

Ẩn sau những quán nhỏ là những người bán hàng gắn bó cả đời với nghề, với ngõ. Có người đã ngồi đây từ năm 1980, từ khi ngõ chỉ là nơi gửi xe cho rạp chiếu phim Long Biên, từ những ngày còn ngồi trên chõng tre, dọn hàng bằng chiếc khăn trải bàn cũ kỹ. Một bà hàng nổi tiếng với món bún ốc và ốc chuối đậu đã gắn bó với sạp hàng hơn 30 năm tâm sự:

"Tôi về làm dâu đã có rồi. Ngày xưa thô sơ cụ gánh rong từ Xã Đàn lên đây qua các tuyến phố bán và lên trên này cụ đậu ở trên này. Trên này đông khách ăn nên bà ở luôn ngõ này chứ không gánh từ dưới nhà lên đây. Ngày trước ngồi chõng tre rồi trải khăn trải bàn lên, thô sơ không như bây giờ. Bây giờ được có biển có bàn ghế inox. Khách ngày xưa không có khách du lịch nhiều như bây giờ, nhưng khách đi chợ giảm đi".

Sự thay đổi của thời gian chỉ làm ngõ chợ thêm phần sinh động, nhưng không mất đi cái “chất” xưa cũ. Khách du lịch ngày càng đông, hàng quán có biển hiệu, bàn ghế inox, nhưng hương vị thì vẫn còn đó – như một sợi dây vô hình nối người Hà Nội hôm nay với thời xa xưa.

Con ngõ nhỏ luôn tấp nập người qua kẻ lại, từ khách ăn hàng đến người bán chuẩn bị hàng

Không chỉ là nơi để thưởng thức ẩm thực, ngõ chợ Đồng Xuân còn là chốn neo giữ ký ức cho những người con phố cổ. Chị Ngọc Phương, sinh ra và lớn lên ở phố cổ chia sẻ:

"Hồi bé, mỗi lần được mẹ cho theo ra đây ăn bún ốc hay bánh tôm là thích lắm. Bây giờ lớn rồi, đi làm, bận rộn, nhưng vẫn giữ thói quen cuối tuần lại rẽ qua ngõ. Có hôm chẳng phải vì đói, mà chỉ muốn ngồi xuống, gọi một bát mì hay cốc chè, nhìn dòng người qua lại, nghe vài câu chuyện quen thuộc từ các cô chú bán hàng.

Phố cổ thì nhỏ, mà tình người thì rộng. Mỗi hàng ăn là một câu chuyện, một góc ký ức không thể thay thế. Tôi vẫn thường nói vui với bạn bè: sống ở đây lâu là tự dưng 'ghiền' cái sự giản dị và chân thành của những quán ăn vỉa hè. Nó là hồn của phố, là chất của Hà Nội".

Còn chị Thu Trà, nhân viên văn phòng gần khu phố cổ, gọi ngõ này là “nơi giúp tôi sống chậm lại”. Đó là cảm giác thân thuộc khi nghe tiếng rao nhỏ nhẹ, thấy nụ cười của cô bán hàng đã quen mặt, hay chỉ đơn giản là hít hà hương nước dùng đậm đà trong bát bún chả. Với nhiều người, đây không còn là chuyện ăn uống – mà là về ký ức, về quê hương, về những điều thân quen trong thế giới ngày càng hiện đại và xa cách:

"Món ruột của tôi là bún chả que tre với chè sen — vừa ngon, vừa đậm chất Hà Nội xưa. Tôi thích cái không khí nơi này, nó rất thật. Không phải kiểu quán xá cầu kỳ, mà là những gánh hàng lâu năm, những tiếng rao nhẹ nhàng, những nụ cười của cô bán hàng quen mặt. Mỗi lần đến đây, tôi có cảm giác như mình được sống chậm lại, được chạm vào một phần ký ức Hà Nội mà không phải nơi nào cũng giữ được..."

Giữa hàng trăm quán ăn sang trọng hay những chuỗi nhà hàng thương hiệu mọc lên khắp nơi, ngõ chợ Đồng Xuân vẫn bình dị, vẫn mộc mạc – và chính điều đó khiến nơi này đặc biệt. Mỗi hàng ăn là một câu chuyện, một mảnh ký ức được giữ gìn bởi những người bán hàng chân chất, yêu nghề.

Ngõ hẹp, người đông, chỗ ngồi san sát – nhưng chẳng ai thấy chật chội. Bởi cái người ta tìm đến không chỉ là món ăn, mà còn là một Hà Nội cũ kỹ, đậm đà hồn phố, giản dị và đầy tình người.

Vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn)

SỐNG Ở HÀ NỘI

Hà Nội – trái tim của cả nước – không chỉ là Thủ đô hôm nay mà còn là vùng đất ghi dấu những thăng trầm nghìn năm lịch sử. Từ kinh đô sơ khai của nhà nước Vạn Xuân đến Thăng Long rồng bay của triều Lý, rồi Đông Kinh, Đông Quan, Bắc Thành… mỗi lần đổi tên là một dấu mốc lịch sử, là một bước chuyển mình của dân tộc.

Hãy cùng Ban VOV Giao thông Quốc gia ngược dòng thời gian, trở lại làng Long Đỗ – nơi khai sinh kinh đô đầu tiên – để khám phá hành trình hơn 1.400 năm mang tên và giữ hồn Hà Nội.

Lý Công Uẩn là vị vua khai sáng kinh thành Thăng Long nhưng người đầu tiên chọn vùng đất này lập “kinh đô” sơ khai của nhà nước Vạn Xuân độc lập lại là Lý Nam Đế. Vùng đất ấy chính là làng Long Đỗ, đất gốc của Hà Nội ngày nay.

Nhà nước Vạn Xuân tồn tại 60 năm (544-604)  thì cũng từng ấy năm Long Đỗ là “kinh đô”. Năm 607  nhà Đường Trung Quốc đặt trị sở ở Long Đỗ, họ đã đổi thành Tống Bình, sau khi xây thành, đắp lũy năm 866, nhà Đường lại đổi là Đại La thành. Năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, xưng vương rồi chuyển qua đóng đô ở kinh đô thời An Dương Vương là Cổ Loa. Khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 xứ quân, năm 968 lấy quốc hiệu là Đại Cổ Việt chuyển kinh đô về Hoa Lư, Ninh Bình.

Năm 980 Lê Hoàn lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê, thụy hiệu là Lê Đại Hành. Năm 981, Lê Hoàn quyết chiến với quân Tống xâm lược và giành thắng lợi đóng đô ở Hoa Lư. Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh qua đời và Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra nhà Lý. Năm 1010, Lý Công Uẩn rời kinh đô Hoa Lư ra xây thành Thăng Long trên nền thành Đại La, sau 72 năm, kinh đô lại  trở lại đất Long Đỗ. Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đã đổi tên Đại Cổ Việt thành Đại Việt.

Kiến trúc hoàng cung Thăng Long, thời nhà Lý được phục dựng toàn bộ (Ảnh: Viện Nghiên cứu Kinh thành)

Cái tên Thăng Long tồn tại đến hết đời Trần. Năm 1397, dù danh nghĩa vẫn là nhà Trần nhưng Hồ Quý Ly gần như nắm hết mọi quyền bính, cho xây thành An Tôn ở Thanh Hóa. Năm 1400, Hồ Quý Ly bức vua Trần lên ngôi đổi tên Đại Việt thành Đại Ngu, đổi kinh đô Thăng Long thành Đông Kinh, đặt phủ An Tôn là Tây Đô. Như vậy cái tên Thăng Long được dùng liên tục trong 390 năm.

Năm 1407, giặc Minh chiếm Đại Ngu, năm 1408, họ  đổi Đông Đô thành Đông Quan với hàm nghĩa kỳ thị kinh đô của Đại Việt chỉ  là “cửa quan phía Đông” của nhà Minh. Cuối năm 1427, kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo giành thắng lợi, đầu năm 1428, Lê Lợi vào thành Đông Quan lên ngôi  vua, ông lấy lại quốc hiệu  Đại Việt, xóa bỏ tên thành Đông Quan.

Vì Thanh Hoá có Tây Đô,  nên Lê Lợi dùng tên cũ là thành  Đông Kinh. Nhà Mạc lên nắm quyền, nội chiến diễn ra giữa quân Lê-Trịnh và Mạc, nhà Lê-Trịnh  gọi là Đông Kinh nhưng nhà Mạc  gọi  Thăng Long.

Khi nhà quân Tây Sơn lên nằm quyền (1778-1802) và vua Quang Trung đóng đô ở Huế nên gọi Thăng Long là Bắc thành. Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn lên ngôi năm 1802 lấy hiệu là Gia Long,  lập ra nhà Nguyễn lấy Huế  làm kinh đô, lập Bắc  thành gồm 11 trấn trong đó có kinh đô Thăng Long xưa.

Năm 1805, vua Gia Long lấy Thăng Long làm lỵ sở cho đổi Thăng Long với  nghĩa “rồng bay lên” thời Lý, Trần thành Thăng Long với  nghĩa “thịnh vượng”. Sau đó  còn hạ lệnh phá bỏ thành Thăng Long thời Lê, xây thành mới nhỏ hơn. Năm 1831, vua Minh Mạng cải cách hành chính, chia lại tỉnh thành xóa bỏ Bắc thành lập tỉnh Hà Nội trong đó có kinh thành Thăng Long. Cái tên Hà Nội có nghĩa là vùng đất trong sông

Cuối thế kỷ 19, Pháp xâm chiếm các tỉnh ền Bắc. Ngày 19-7-1888, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội thuộc Pháp. Địa giới thành phố Hà Nội thuộc Pháp tương ứng với quận Hoàn Kiếm, một phần Ba Đình và Hai Bà Trưng. Năm 1902, chính quyền Pháp lấy Hà Nội là Thủ đô của Liên bang Đông Dương. Như vậy tính từ kinh đô sơ khai thời Lý Nam Đế cho đến hôm nay mảnh đất này có tới 9 lần đổi tên