Khi di sản gặp nhau ở Thăng Long

Festival Thăng Long – Hà Nội đã khép lại, nhưng những giá trị mà “Hội tụ di sản” mang đến vẫn còn đọng lại trong ký ức người xem.

Ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám, nơi nghìn năm lưu giữ tinh hoa đất học, những làng nghề từ Bắc chí Nam đã một lần cùng thắp lên vẻ đẹp truyền thống qua bàn tay của các nghệ nhân.

Họ không chỉ trình diễn kỹ thuật, mà còn kể lại hành trình giữ nghề, giữ văn hóa bằng tất cả niềm tự hào.

Festival Thăng Long – Hà Nội đã khép lại, nhưng dư âm của “Hội tụ di sản” tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám dường như vẫn còn vang vọng trong lòng những người từng ghé thăm.

Như một cuộn phim được tua chậm, ký ức về những ngày hội ấy hiện lên rõ nét: giữa sân Thái Học rực nắng, tinh hoa các làng nghề truyền thống ba ền đã từng hội ngộ – gốm Bát Tràng mộc mà sang, sơn mài Hạ Thái ánh lên chiều sâu thời gian, thêu Thường Tín tỉ mỉ từng đường kim sợi chỉ; rồi nón lá sen, bánh Huế, sản vật Ninh Bình, thổ cẩm, cà phê và sâm Ngọc Linh từ đại ngàn Tây Nguyên.

Tôi vẫn nhớ gian trưng bày sơn mài Hạ Thái – nơi khán giả bị cuốn vào thế giới của màu sắc và sự kiên nhẫn vô tận. Ở đó, nghệ nhân Trần Thị Huyền vừa gắn từng mảnh trứng, mảnh trai lên mặt gỗ, vừa chậm rãi kể về hành trình làm nên một tác phẩm sơn mài kỳ công:

“Một sản phẩm từ lúc bắt đầu làm cho đến khi hoàn thiện như này, nguyên nước cốt này phải rơi vào 13 nước và khi để nghệ nhân vẽ cũng phải 5-6 lần nữa, thì vào khoảng 20 nước mới hoàn thiện được một tác phẩm sơn mài. Ví dụ như cái cốt ở bên trong này, chúng tôi phải bọc vải, sau đấy mới quét sơn lên, chờ khô.

Chúng tôi làm rất nhiều nước nữa, cuối cùng là lớp màu đen, gọi là lớp áo để bọc các lớp kia. Khi xong cốt thì chuyển sang bản vẽ. Sau đấy làm màu, rồi gắn trứng, trai, bạc, quét lên nhau, sơn vào rồi lại mài ra, mài cũng là một quá trình nghệ thuật, đòi hỏi kỹ thuật cao".

Ảnh: VOV

Nhớ lại những ngày diễn ra “Hội tụ di sản”, tôi vẫn thấy rõ cảnh gian hàng sơn mài Hạ Thái luôn chật kín người đứng xem. Có lẽ chính sự tỉ mẩn mà nghệ nhân dành cho từng lớp sơn, từng mảnh trai, mảnh trứng đã khiến ai đến đó cũng phải dừng lại thật lâu.

Khi ấy, mỗi sản phẩm không chỉ đơn thuần là đồ thủ công, mà như một lát cắt văn hoá được kể bằng vật liệu truyền thống, bằng ký ức của làng quê Việt. Nghệ nhân Đỗ Hùng Chiêu đã từng nói, với sự chân thành của người cả đời gắn với nghề:

“Ở đây là những hình tượng rất gần gũi với người dân Việt. Giả sử như chú tễu, cô Tiên, câu cá, úp nơm, xúc cua, như sáo nhị trống, có cả ông Tiến sĩ nữa. Đây là văn hóa của người Việt mà từ xa xưa đã có, trở thành nét rất đẹp. Chúng tôi muốn đưa vào các sản phẩm sơn mài thế này để gợi nhớ cho các cháu về một thời và văn hóa của người Việt muốn gìn giữ, bảo tồn, có những nét văn hóa mà không thể mất đi được".

Cũng mang theo khát khao gìn giữ nghề cha ông, nghệ nhân trẻ Phạm Văn Thanh từ làng gốm Bồ Bát, Ninh Bình đến lễ hội với những sản phẩm men trắng tinh khiết, mỗi món đều là “độc bản”.  Trong khi nhiều người chạy theo dây chuyền công nghiệp, anh lại chọn con đường chậm rãi, nâng niu từng mẻ đất, từng lớp men trắng tinh khiết để giữ lấy nghề của cha ông. Những sản phẩm anh mang đến festival hôm ấy – mỗi món một vẻ, mỗi món chỉ có một – là nh chứng cho niềm tin bền bỉ vào giá trị thủ công truyền thống:

“Xưa làng nghề có 170 hộ theo nghề, nhưng giờ chỉ còn 3 hộ còn giữ được nghề. Giới trẻ bây giờ thích hiện đại, theo năng suất sản phẩm công nghiệp nên nghề thủ công của các cụ đang bị mai một, nên mong ước của mình muốn mang đến giá trị của người Việt, làm thủ công có những nét văn hóa riêng. Mỗi sản phẩm của tôi là độc bản, chỉ có một.

Những nguyên liệu, màu mực ở đây đều tự nhiên mà các cụ xưa đã làm. Gốm sứ men lam màu chàm cổ, được nung trong môi trường khử, tức là môi trường yếm khí, thiếu oxy nên sản phẩm sứ của nó rất sâu, với những màu chàm cổ được nung khử thì màu vĩnh cửu, hàng nghìn năm vẫn thế này.

Sau này, tôi định hướng tương lai con cháu duy trì dạy nghề này, tự hào tôn vinh giá trị của người Việt Nam, những nét văn hóa riêng của Việt Nam, để tương lai xuất khẩu nước ngoài".

Ảnh: VOV

Từ ền Bắc xuôi xuống đại ngàn, câu chuyện gìn giữ di sản tiếp tục được kể bởi nghệ nhân H’Kim Hoa Buôn Yă, người phụ nữ MNông dành nhiều tháng đi khắp buôn làng để tìm người còn nhớ cách dệt hoa văn nguyên gốc. Chị chia sẻ, hành trình khôi phục hoa văn nguyên gốc của dân tộc mình là hành trình đi tìm lại những gì đang trôi dần khỏi ký ức cộng đồng:

“Mình muốn khôi phục và giữ gìn bảo tồn cái thổ cẩm, hoa văn MNông. Xưa giờ cái hoa văn này cũng dần bị mai một. Chính vì điều đó, mình cố gắng đi tìm và khôi phục lại hoa văn MNông, bằng cách tổ chức lớp học trong vòng một tháng.

Nhưng quá trình đó 15 chị thì chỉ 5 chị học được hoa văn MNông. Để hình thành ra hoa văn này, người ta phải nhặt từng sợi, rất khó cho quá trình dệt của các chị. Mỗi hoa văn là 1 câu chuyện phản ánh đời sống văn hóa của mỗi dân tộc".

Giữa không gian Văn Miếu – biểu tượng của hiền tài Thăng Long, những bàn tay nghệ nhân vẫn ệt mài gìn giữ nghề như giữ lấy mạch nguồn văn hóa của mảnh đất hình chữ S. “Hội tụ di sản” khép lại nhưng tinh thần ấy vẫn còn đọng lại: sự bền bỉ, tinh tế và niềm tự hào về những giá trị cha ông để lại.

Và khi rời Văn Miếu, mỗi người mang theo không chỉ một món quà nghề truyền thống, mà là một phần hồn cốt Thăng Long – Hà Nội, đủ để yêu hơn, trân quý hơn mảnh đất này trong từng nhịp sống hôm nay.