Không chỉ là công trình kiến trúc độc đáo mang hơi thở của những năm 1960–1970, nơi đây còn gắn liền với đời sống văn hóa đô thị, với những cuộc hẹn hò, tụ họp bạn bè, hay đơn giản là những buổi dạo chơi ngắm phố phường. Trải qua hơn nửa thế kỷ, Hồ Con Rùa vẫn đứng đó, như một chứng nhân lặng lẽ, ghi dấu những biến chuyển không ngừng của một đô thị năng động bậc nhất cả nước.
Nguồn gốc Hồ Con Rùa có thể lần về tận cuối thế kỷ XVIII. Năm 1790, vua Gia Long đã cho xây dựng thành Bát Quái, hay còn gọi là thành Quy, tại vùng đất trung tâm Sài Gòn. Đây là công trình quân sự kiên cố mang hình tượng con rùa – biểu tượng linh thiêng trong tư tưởng Á Đông. Thành có tám cửa, trong đó cổng Khảm Khuyết nằm ngay khu vực Hồ Con Rùa ngày nay.
Thành Bát Quái tồn tại không lâu, nhưng dấu tích Khảm Khuyết đã in hằn vào trí nhớ đô thị. Khi thành bị phá bỏ dưới triều Minh Mạng vào năm 1835 để xây thành Gia Định mới vuông vức và dễ quản lý hơn, khu vực Khảm Khuyết vẫn là trục giao thông trọng yếu, nối liền các đường đi ra vào chốn quan yếu của thành.
Đến nửa sau thế kỷ XIX, khi người Pháp đặt ách cai trị ở Nam Kỳ, họ đã biến đổi trung tâm Sài Gòn theo mô hình đô thị phương Tây. Năm 1878, một tháp nước được xây tại vị trí Hồ Con Rùa ngày nay để phục vụ nhu cầu cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Đến năm 1921, tháp nước bị phá bỏ và con đường được mở rộng nối dài đến đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu). Từ đó, vị trí này trở thành giao lộ của các tuyến đường như ngày nay.
Sang thế kỷ XX, vị trí này tiếp tục biến đổi. Khoảng thập niên 1920–1930, người Pháp cho xây một tượng đài ba binh sĩ bằng đồng với hồ nước nhỏ, để đánh dấu cuộc xâm chiếm và biểu tượng của người Pháp làm chủ Đông Dương. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956 thì bị Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ.
Sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, địa điểm Công trường Chiến sĩ trở thành vòng xoay giao thông của đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch) và Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần - Trần Cao Vân). Thời điểm xây Hồ Con Rùa chưa được xác định chính xác, song một số tài liệu cho là nó được xây năm 1965-1967.
Trong những năm 1970 đến 1974, Hồ Con Rùa được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trùng tu và chỉnh trang. Trong đó có việc dựng thêm và điều chỉnh 5 cột bêtông cao có dạng năm bàn tay xòe ra giống như các cánh hoa đón đỡ một nhụy hoa.
Công trình mới này còn bao gồm một vòng xoay giao thông với đường kính khoảng gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanh và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm và hình tượng con rùa bằng hợp kim đội trên lưng bia đá lớn. Do đó, mới có tên gọi dân gian là Hồ Con Rùa.
Ban đầu, khu giao lộ này được đặt tên là Công trường Chiến sĩ Tự do, đến năm 1972 thì đổi tên thành Công trường Quốc tế. Tuy nhiên, đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ, dù con rùa không còn nhưng người dân vẫn quen cách gọi cũ thay vì tên chính thức.
Tuy không ai có thể xác nh thực hư, nhưng trong ký ức đô thị Sài Gòn, Hồ Con Rùa còn gắn với một giai thoại mang màu sắc tâm linh: chuyện trấn yểm long mạch. Theo phong thủy, người ta truyền ệng rằng hồ Con Rùa là nơi rồng thiêng trú ngụ.
Trong đó, vị trí Dinh Độc Lập là phần đầu rồng, còn nơi này là phần đuôi nên chính quyền Ngụy đặt bia đá và dựng tượng rùa để trấn yểm long mạch.
Đối với nhiều người Sài Gòn, ký ức về Hồ Con Rùa còn gắn với những hàng quán bình dân xung quanh. Những năm 1980–1990, khi kinh tế còn khó khăn, khu vực này trở thành nơi tụ tập của các hàng rong với đủ loại quà vặt: bắp xào, bánh tráng trộn, bò bía, phá lấu… Mùi thơm tỏa ra từ những xe đẩy nhỏ, hòa với tiếng cười nói của đám học trò, đã tạo nên một phần ký ức không thể nào quên.
Người ta vẫn nhớ hình ảnh từng nhóm bạn trẻ ngồi bệt quanh hồ, tay cầm ly nước mía, hạt hướng dương, chuyện trò rôm rả, vừa giản dị vừa thân thương.
Cô Huỳnh Ba, sống ở phường Bến Nghé, chia sẻ: "Hồi đó, cô hay dẫn mấy đứa con cô ra Hồ Con Rùa chơi, hóng mát, thấy thoải mái, rộng rãi. Chỗ này là hồ nước, xung quanh có cầu đi vòng vòng thấy cũng hay, thích, vui mắt. Hồ Con Rùa nhưng thấy con rùa nào hết trơn, hồi xưa không biết có tích gì không mà gọi là Hồ Con Rùa, mình nghe vậy nên mình kêu theo thôi".
Theo dòng chảy thời gian, giai thoại cũng bị lãng quên dần, nhưng vòng xoay và hồ nước vẫn gắn bó với người dân. Ngày nay, khi Sài Gòn không ngừng đổi thay, xung quanh Hồ Con Rùa đã mọc lên nhiều quán cà phê hiện đại, các cửa hàng thời trang, những tòa cao ốc sáng rực ánh đèn. Nhưng giữa sự sầm uất ấy, hồ vẫn giữ được dáng vẻ riêng: một khoảng không gian xanh, một nơi để con người tạm ngừng bước, tìm lại chút tĩnh lặng hay đơn giản chỉ là nơi dừng chân giữa hành trình.
Em Lê Huỳnh Anh Thư, học sinh cấp 3 ở phường cầu Ông Lãnh, chia sẻ: "Cuối tuần, em hay ghé Đường sách chơi rồi ghé qua Hồ Con Rùa vì ở đây không gian thoáng mát và có nhiều quán ăn vặt, có giá cả phù hợp học sinh, sinh viên".
Hơn hai trăm năm, từ thành Bát Quái đến trung tâm Sài Gòn, từ cổng Khảm Khuyết đến vòng xoay rực sáng, Hồ Con Rùa đã chứng kiến bao đổi thay. Dù tên gọi giản dị, công trình ấy chứa đựng cả một dòng chảy lịch sử. Vì thế, Hồ Con Rùa không chỉ là một điểm hẹn, mà còn là ký ức đô thị sống động, một tấm gương soi chiếu những biến thiên của thành phố hơn hai thế kỷ qua.
SỐNG Ở SÀI GÒN: Áo dài muôn nẻo phố
Trên những con đường rực nắng Sài Gòn, thỉnh thoảng bắt gặp hình ảnh tà áo dài uyển chuyển đi qua, như một nét chấm phá mềm mại giữa nhịp sống hối hả của đô thị hiện đại. Từ ngã tư tấp nập, những hàng cà phê vỉa hè, cho đến sân trường rộn tiếng cười tuổi trẻ, áo dài hiện diện như một phần quen thuộc của phố phường.
Không chỉ là trang phục truyền thống, áo dài ở Sài Gòn đã vượt ra khỏi giới hạn của lễ nghi để trở thành một nếp văn hóa – nơi mỗi đường kim, mũi chỉ lưu giữ ký ức xưa, nhưng đồng thời cũng phản chiếu sức sống mới mẻ của thời đại.
Trong dòng chảy của lịch sử Việt Nam hiện đại, ít có trang phục nào giữ được vị trí bền vững như áo dài. Bắt đầu từ những cải biến đầu thế kỷ XX, chiếc áo dài đã không chỉ trở thành biểu tượng thẩm mỹ mà còn là chứng nhân cho những biến đổi của xã hội, của vai trò người phụ nữ, và của đời sống đô thị.
Những năm 1900, khi xã hội Việt Nam bước vào làn sóng giao thoa Đông – Tây, trang phục truyền thống cũng dần đổi thay. Phụ nữ Việt lúc đó phổ biến mặc áo tứ thân, áo năm thân, kết hợp yếm và váy đụp. Tuy nhiên, tầng lớp thị dân tại Huế, Hà Nội và Sài Gòn bắt đầu chú trọng tính thẩm mỹ và sự tiện lợi trong trang phục. Từ áo ngũ thân truyền thống, các nhà may dần biến đổi, kéo dài tà áo, chiết eo nhẹ để tôn dáng.
Đặc biệt, vào thập niên 1930, áo dài bước vào cuộc cải cách lớn. Nhà may Cát Tường đã tạo ra chiếc áo dài Le Mur – giữ phần thân áo dài truyền thống nhưng kết hợp cổ tay áo phồng, vai bồng không cổ, khuy lệch, mang dáng dấp phương Tây. Chiếc quần được cải tiến cũng trở nên thon gọn và gợi mở hơn so với loại quần ngày trước. Tất cả tạo nên một phong trào may mặc trang phục mới, chủ yếu đáp ứng nhu cầu của tầng lớp phụ nữ tân thời, thị dân. Sự “Tây hóa” của áo dài Le Mur vấp phải nhiều tranh luận nên sớm bị rơi vào quên lãng nhưng cũng là tiền đề mở đường cho tư duy thời trang mới của áo dài Việt.
Năm 1960, áo dài Raglan xuất hiện do nhà may Dung (của ông Đỗ Thành) ở phường Đakao, Sài Gòn sáng tạo. Điểm khác biệt ở áo dài tay Raglan là áo ôm khít cơ thể hơn, cách nối từ cổ chéo xuống một góc 450 độ giúp người mặc thoải mái, dễ chịu và linh hoạt. Áo dài Raglan này góp phần định hình phong cách chiếc áo dài Việt ở cả những thiết kế, cách tân về sau.
Thời trang áo dài tiếp tục được cải tiến, thay đổi theo nhu cầu. Với sự giao thoa giữa yếu tố hiện đại và cổ điển, “áo dài chít eo” trở thành kiểu dáng thời thượng Sài Gòn vào thập niên 60 – 70. Phụ nữ thành thị với tư duy cởi mở, muốn tôn lên những đường cong cơ thể qua kiểu áo dài chít eo được may thắt lại, tà áo rộng, phần ngực áo nhô cao, gấu áo thẳng ngang, dài đến mắc cá chân, làm cho người mặc có dáng "thắt đáy lưng ong" và thanh lịch, quý phái.
Phụ nữ Sài Gòn thập niên 1960 coi áo dài là “thường phục đô thị”. Họ có thể mặc áo dài đi tiệc, đi làm, đi học, và cả khi xách giỏ đi chợ. Hình ảnh tà áo dài phấp phới trên xe Rolex, vespa đã trở thành ký ức văn hóa đô thị một thời và đi vào thơ ca, nhạc, họa. Như “Ngày xưa Hoàng Thị” của thi sĩ Phạm Thiên Thư: “Em tan trường về đường mưa nho nhỏ/ Ôm nghiêng tập vở, tóc dài tà áo vờn bay.” Hay trong bài thơ Áo trắng của Huy Cận: “Nắng thơ dệt sáng trên tà áo/ Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài”…
Sau 1975, trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ khó khăn, áo dài dần ít hiện diện trong đời sống thường ngày. Những bộ quần áo gọn gàng, tiện lợi cho lao động được ưu tiên. Tuy nhiên, áo dài không biến mất. Nó trở thành trang phục trong các dịp quan trọng: lễ cưới, lễ hội, ngày trọng đại của nhà trường và cơ quan.
Mãi đến những năm 1990, chiếc áo dài mới trở lại trong đời sống Sài Gòn - TP. HCM một cách mạnh mẽ. Áo dài đến trường, áo dài đi chơi, áo dài vừa kín đáo lại vừa như thấp thoáng chào mời, áo dài đón khách quý từ khắp nơi trên thế giới, áo dài trên sàn diễn thời trang quốc tế, áo dài vui mùa lễ hội, và áo dài tinh khôi trong ngày cưới của đôi lứa yêu nhau… Chiếc áo dài trở lại với nhiều kiểu dáng phong phú, chất liệu khác nhau qua các bộ sưu tập đầy sáng tạo nhưng vẫn rất tôn trọng truyền thống.
Qua bao năm tháng, có thể nói phụ nữ Sài Gòn xưa với tà áo dài trên phố đã mang tới những chuẩn mực về vẻ đẹp bền bĩ theo năm tháng và vẫn là nguồn cảm hứng cho tới tận bây giờ. Có lẽ vì thế, những người đẹp hiện nay, lâu lâu lại mang "hồn thu thảo" của một Sài Gòn xưa qua những tấm ảnh với áo dài kiểu cổ, tóc thề xõa vai.
Bằng cách nào đó, nét dung dị của những tà áo dài xưa vẫn vẹn nguyên cái hồn, cái sắc, mà chỉ cần ngắm nhìn thôi cũng đủ mang đến cho người ta nhiều cảm xúc hoài niệm. Áo dài phấp phới tung bay dường xô dạt cả trời chiều, chao nghiêng nhiều đôi mắt, làm ngẩn ngơ những con đường nội thành trong một buổi chiều xuân nhẹ nắng. Và những khoảnh khắc đẹp lộng gió ấy lại tiếp tục đi vào cuộc sống; mềm mại, êm ái vào thơ ca, nhạc họa, vào lòng người của thế hệ hôm nay.