Với nhiều người, Quốc khánh là ngày hội lớn của dân tộc, dịp để tri ân các thế hệ cha anh đã hy sinh vì Tổ quốc. Còn với người lính Cụ Hồ, những người trực tiếp cầm súng bảo vệ nền độc lập, tự do, ngày 2/9 còn mang ý nghĩa sâu sắc hơn thế.
Đó là ngày mà ký ức về cuộc đấu tranh gian khổ và niềm vui vỡ òa khi đất nước được độc lập, lại ùa về, vẹn nguyên như thuở ban đầu.
Một buổi chiều cuối tháng Tám, căn nhà nhỏ nằm sâu trong con ngõ yên tĩnh ở Hà Nội đón chúng tôi bằng không gian ấm áp và mùi trà thơm quen thuộc. Thiếu tướng Võ Sở, nguyên Phó Tư lệnh Binh đoàn 12, năm nay bước sang tuổi 95, nhưng ánh mắt vẫn tinh anh, giọng nói rắn rỏi như thời còn quân ngũ.
Là cựu chiến binh từng trải qua nhiều mặt trận ác liệt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ông vẫn không quên ký ức về ngày 2/9/1945, thời khắc thiêng liêng khi đất nước bước sang trang sử mới: “Tuy không trực tiếp nghe Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập, nhưng thông tin tuyên truyền của địa phương qua loa phát thanh, khi khởi nghĩa xong thì làng xóm ùn ùn nổi dậy. Đặc biệt là khi có thông báo Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba Đình thì thanh niên chúng tôi đều có tinh thần sôi sục, đi đến từng làng xóm, kêu gọi bà con nghe đài phát thanh tuyên truyền. Khi được nghe, được biết như thế thì vui mừng đến mức độ là ôm nhau, rồi chạy khắp đường làng, ngõ xóm”.
Cũng với hoài niệm về ngày Độc lập, Thiếu tướng Tô Đa Mạn, 94 tuổi, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, dù sức khỏe đã yếu, đôi chân không còn vững, nhưng nhắc đến ngày 2/9/1945, ánh mắt ông như bừng sáng lên.
Ông kể, hồi đó đang là học sinh, nghe tin Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Hà Nội, khiến trái tim tuổi trẻ rạo rực khôn tả. Cảm giác lúc ấy là niềm tự hào trào dâng, khát vọng về một cuộc sống tự do bùng lên mãnh liệt trong từng người dân. Trong giây phút hồi tưởng, ánh mắt ông rực rỡ lên niềm vui, như sống lại khoảnh khắc thiêng liêng của lịch sử dân tộc.
“Cách mạng về, lúc đó ở nhà đã biết chiến khu, biết Bác Hồ rồi, biết bao nhiêu bài hát chiến khu rồi. Cho nên trước hết hòa vào tinh thần đón ngày mùng 2/9 và được hát tất cả các bài cách mạng đấy là một trong những niềm vui nhất. Được hát những bài Việt Nam, ‘bao chiến sĩ anh hùng’, ‘nhớ chiến khu’, ‘đoàn quân Việt Nam đi trung lòng cứu quốc’. Đến ngày 2/9/1945, Bác đọc Tuyên ngôn độc lập, nghe đến tinh thần, nghe đến Bác nói độc lập, tự do là quý lắm rồi. Có câu Bác nói xong mà bây giờ vẫn thấm thía ‘Đồng bào có nghe tôi nói rõ không’, ôi nghĩ mà chảy nước mắt. Sao cụ lại giỏi thế chứ”.
Tuy nhiên, niềm vui của ngày độc lập năm 1945 không kéo dài được bao lâu. Chỉ hơn một năm sau, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, buộc dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, đầy gian khổ.
Hàng vạn thanh niên lên đường nhập ngũ, mang trong tim ngọn lửa từ ngày 2/9 lịch sử. Với họ, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là lời hiệu triệu, mà còn là kim chỉ nam, là mục tiêu tối thượng để vững bước dưới bom đạn. Họ biết mình đang chiến đấu vì một đất nước tự do, nơi nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của mình.
Bà Ngô Thị Tuyết, nguyên chiến sĩ giao liên trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại chia sẻ: “Tiểu đoàn nữ Trưng Trắc của chúng tôi khi đó có trên một trăm nữ, tuổi mười tám, đôi mươi viết đơn ra trận. Chúng tôi được phân công ở nhiều lĩnh vực trong đường Trường Sơn như giao liên, y tá, công binh, bảo mật và những cương vị như hậu cần. Và tất cả chúng tôi đều cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách với tổ quốc”.
Hồi tưởng những ngày đầu của đất nước độc lập, Thiếu tướng Võ Sở nhớ lại quãng thời gian hòa vào dòng chảy cách mạng, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để bảo vệ nền độc lập non trẻ mà dân tộc vừa giành được: “Sau khi kháng chiến xong thì nghe tin Pháp đánh Nam bộ, lúc đó tất cả đều sôi sục lên và tổ chức các đội cứu quốc. Trong ký ức của mỗi một người dân Việt Nam và riêng bản thân tôi lúc đó tuổi trẻ, mình đã trực tiếp thấy được những hành động của thực dân Pháp thì lòng căm thù rất cao. Cho nên lúc đó lực lượng tham gia khởi nghĩa đồng thời huy động đi bộ đội nhiều lắm, đông lắm. Hồi đó có tuyển quân đâu, huy động, hô một cái là mọi người đến thôi mà”.
Với những người lính Cụ Hồ năm xưa, tự do không phải điều gì tự nhiên mà có, độc lập cũng không phải khái niệm nằm trên trang sách. Mà đó là mồ hôi, nước mắt, là những đêm rừng lạnh buốt, hay bữa cơm vội vàng giữa chiến khu.
Dù tuổi đã cao, họ vẫn dõi theo thời cuộc bằng tinh thần “binh chủng thời bình”, vui mừng khi thấy đất nước yên bình, trẻ em được đến trường, kinh tế ngày càng phát triển và những tuyến cao tốc nối dài qua khắp mọi ền tổ quốc. Thiếu tướng Tô Đa Mạn bày tỏ: “Mùng 2/9 là ngày đầu tiên của nước Việt Nam ta. Cho nên chữ độc lập quý lắm. Bây giờ mình làm sao mà giữ nền độc lập đó cho được vững vàng. Đến bây giờ ý nghĩa của độc lập càng rõ và càng quý. Qua bao cuộc kháng chiến chúng ta đã giữ được nền độc lập đó. Người dân mỗi ngày được hạnh phúc thêm, sung sướng thêm. Đến bây giờ ý nghĩa của độc lập càng thấm vào trong suy nghĩ của mỗi người dân. Chữ độc lập tự do bây giờ rất quý, chúng ta có thể sẵn sàng hy sinh nếu cần thiết”
Mỗi năm, khi tháng 9 về, những người lính Cụ Hồ năm xưa lại lặng lẽ gấp nếp áo, lau huân chương, treo cờ tổ quốc trước cửa nhà. Với họ, ngày Quốc khánh là dịp để sống lại một phần tuổi trẻ, một thời oanh liệt, oai hùng nhưng cũng đầy gian khổ. Ký ức của họ không nằm trong sách sử, mà sống động trong từng lời kể, từng vết sẹo, từng giọt nước mắt khi nhớ về đồng đội.
Và với chúng ta, những người đang sống trong hòa bình, lắng nghe họ cũng là một cách để tri ân. Bởi độc lập không phải món quà tự nhiên. Tự do không đến từ lời nói. Nó đến từ những người đi qua đạn bom, đã ngã xuống cho đất nước được đứng lên.