Về thắc mắc của bạn Hải Minh, VOV Giao thông xin được trả lời như sau:
Căn cứ theo khoản 1 điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định. Trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó.
Khi đã hết thời hạn chấp hành quyết định xử phạt mà người có hành vi vi phạm vẫn không thực hiện nghĩa vụ của mình, thì cứ mỗi ngày chậm nộp phạt sẽ phải nộp thêm 0,05% tính trên tổng số tiền phạt chưa nộp (điều 78 luật Xử lý vi phạm hành chính).
Cũng theo điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung 2020) quy định về thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính như sau:
- Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 1 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
- Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.
Do vậy, nếu người vi phạm trốn tránh không nộp phạt mà bỏ xe lại thì thời hiệu thi hành quyết định xử phạt tính từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn.
Bên cạnh đó, tại Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung 2020) quy định, trường hợp hết thời hạn trên mà cá nhân vẫn không thực hiện nghĩa vụ của mình thì có thể bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt bằng cách hình thức sau:
- Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản của người vi phạm
- Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá;
- Thu tiền, tài sản khác của người bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do người khác đang giữ trong trường hợp người vi phạm cố tình tẩu tán tài sản;
- Buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
Đáng chú ý, tại điểm d, khoản 2, điều 43 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, tổ chức, cá nhân vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, mà chưa thực hiện xong yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết vụ việc vi phạm hành chính, thì chưa được giải quyết đăng ký, đăng kiểm xe vi phạm.
Đồng thời, khoản 4, điều 62 của luật này cũng quy định sẽ chưa cấp, đổi, cấp lại giấy phép lái xe đối với người vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ khi chưa thực hiện xong yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết vụ việc vi phạm hành chính.
Như vậy, đối với xe vi phạm chưa giải quyết nộp phạt sẽ không được đăng kiểm, đăng ký. Đồng thời, tài xế vi phạm cũng sẽ không được cấp lại, đổi bằng lái.