Mắm trước, đước sau, tràm theo sát
Sau hàng dừa nước mái nhà ai
Chẳng có loài cây ăn trái nào sống nổi ở nơi đất đai khắc nghiệt như thế, nên mấy trăm năm “tam công” vẫn là thổ địa.
Cho đến một ngày những lưu dân về xứ Ba Đình mở cõi, người ta đã biết trồng đúng cây đất thích, từ đó thương hiệu khóm Ba Đình ra đời. Khóm Ba Đình đã từng một thời rực rỡ, vươn lên từ đồng đất quê nghèo, là sinh kế của nhiều hộ gia đình vùng dọc sông Cái Lớn.
Hành trình hơn trăm năm chinh phục đất phèn
Miền Nam có mấy thương hiệu khóm ngon nức tiếng phải kể đến, như là: Bến Lức, Tân Phước, Bưng Sẫm, Cầu Đúc, Tắc Cậu, Ba Đình. Cái tên nào cũng vang danh, có tuổi đời từ vài chục đến cả trăm năm. Nhưng để công nhận cây khóm nào tiên phong sống được trên đất phèn – mặn ở vùng Nam Sông Hậu thì câu trả lời là cây khóm Ba Đình!
Địa danh Ba Đình là vùng đất dọc sông Cái Lớn, tiếp giáp 03 địa phương: Vĩnh Tuy, Vĩnh Bình (tỉnh An Giang) và Vĩnh Lộc (tỉnh Cà Mau). Năm xưa, người dân trên khúc sông này xây dựng 03 ngôi đình thờ thần sông để phù hộ cho ghe tàu đi lại bình an nên gọi là Ba Đình. Hàng ngàn hecta đất nông nghiệp vùng này nhiễm phèn, nước mằn mặn và nông dân thì có hành trình 117 năm chuyên canh cây khóm.
Cây khóm bén rễ trên vùng đất Ba Đình có thể xem là sự an bài của tạo hóa, được lưu dân cắm xuống đất Vĩnh Bình năm 1908. Khi đó, cây khóm là một thứ thực vật “ngoại lai” du nhập vào Việt Nam qua các thương cảng, không danh phận, trồng chỉ để đó cho đất phủ xanh cây. Nhưng không ngờ, cây khóm là “chìa khóa” mở cửa “kho báu” trên đất phèn.
Ông Võ Thanh Xuân, Chủ tịch HĐND xã Vĩnh Bình, tỉnh An Giang cho biết:
“Khóm Ba Đình nổi tiếng là ngọt, đất ở đây phèn mặn nên trồng khóm nó chịu đất nó ngọt lắm. Khi người xưa về đây, tiền nhân đã biết chinh phục thiên nhiên và trồng cây khóm ở Vĩnh Bình từ sớm. Khi cây khóm phát triển thu hút ghe lớn về mua, giúp nâng cao đời sống người dân. Nông dân vẫn thường ca ngợi 1 công khóm ăn đứt 7 công ruộng”.
Thổ nhưỡng ở Ba Đình vốn chứa nhiều kali, nhôm, sắt,… toàn là những thứ khoáng chất “lì đòn”. Nước sông mằn mặn thẩm thấu vào, làm hòa tan hết những khoáng chất đó tạo thành một loại đất phèn mà nhiều loài cây ăn trái không trụ nổi vì khó được dưỡng nuôi. Khi cây khóm trồng xuống, bộ rễ mỏng manh tỏ ra rất dễ chịu và hút được tối đa dinh dưỡng trong đất phèn một cách lạ kỳ. Chính nguồn dinh dưỡng này giúp cho trái khóm Ba Đình rất giòn và ngọt. Từ đó, cây khóm bén rễ đất Ba Đình rồi trở thành hình mẫu cho các cuộc khai hoang trồng khóm trên đất phèn ở vùng lân cận.
Giống khóm trồng ở Ba Đình có ngoại hình thanh nhã, cuống ngắn, lõi nhỏ, mắt lồi, hố mắt hơi sâu, khi chín thịt màu vàng sậm. Sức sinh sôi của cây khóm nhiều vô tận, sau khi gieo trồng và chăm sóc đến 14 tháng tuổi thì khóm cho lứa trái đầu tiên.
Lúc cây mẹ nuôi trái cũng có bụi nhảy khóm con từ nách mẹ (có bụi 2-3 con). Khi trái khóm đầu được xắn thì con cái của rẫy khóm đua nhau lớn lên, vài tháng lại đủ sức ra trái. Cứ như vậy, năm này qua năm nọ, khóm mẹ sinh khóm con, đời khóm bền bỉ đâm đồi trên đồng phèn chua lét, mang về trái ngọt quanh năm.
Ông Ngô Minh Sơn, ngụ ấp Ba Đình, xã Vĩnh Bình, tỉnh An Giang kể :
“Khóm Ba Đình vừa ngọt vừa thơm, mùa nắng thì ngọt gắt lắm. Hồi đó trồng khóm hiệu quả lắm, một công đất tôi gieo 3 thiên (3.000 cây) khóm con, sau khi đổ khí đá thì ra vụ đầu thu về 1.500 trái/công. Lúc đó tôi có 90 công đất trồng khóm, bán một năm được 300 triệu”.
Giai đoạn huy hoàng của khóm Ba Đình là những năm 1990, có nhà cầm trong tay 100 công đất, đều đặn thu hoạch ít nhất 200.000 trái khóm/năm, bán với giá bèo bọt chỉ 2.000 đồng/trái, thu về 400 triệu đồng. Từng một thời, sông Cái Lớn là dòng trường giang phụ trách vận chuyển nhiều chuyến tàu khẳm mũi chở khóm đi từ Ba Đình đổ về Rạch Giá hoặc ngược lên Sài Gòn.
Khóm xanh thì gọi là khóm Liên Xô (xuất khẩu đi Liên Xô), khóm chín gọi là khóm xanh, thương lái khắp nơi quy tụ về Ba Đình gọi là dân “ăn khóm”. Nhờ khóm mà chợ Ba Đình sầm uất cực độ, tàu ghe từ các tỉnh thả neo chờ mua khóm, hàng quán mọc lên ào ào. Cứ đến mùa thu hoạch khóm là thấy người ta đi chợ sắm vàng.
Khát vọng hồi sinh “vương quốc khóm” trên đất Ba Đình
Thế rồi, đến năm 1995, chỉ cách nhau một con sông Cái Lớn mà ở Vĩnh Tuy thì ngày càng giàu có nhờ khóm, còn ở Vĩnh Lộc và Vĩnh Bình, cây khóm càng lúc lụi tàn, ai nhìn cũng xót. Chẳng hiểu vì lý do gì, khóm ở đây phát sinh dịch bệnh, cây trồng chậm lớn, cho trái ít đi và bị hư nhiều. Có người cho rằng đó là bệnh thúi củ hũ, bị sâu đục thân, hoặc bị rệp sáp tấn công.
Có người cho rằng đất trồng khóm bị thoái hóa nên hì hục múc mương lấp đất để trồng giống khóm mới, nhưng tất cả đều thất bại. Dân Ba Đình một nửa buông tay, giã từ đời khóm, Vĩnh Tuy thì còn duy trì được vài ngàn hecta nhưng Vĩnh Lộc và Vĩnh Bình chỉ còn 700 – 800 hecta. Chợ Ba Đình náo nhiệt ngày nào cũng ít dần hương thơm khóm chín, chỉ nhóm họp vài tiếng đồng hồ rồi vắng lặng buồn tênh.
Ông Ngô Minh Sơn, ngụ ấp Ba Đình, xã Vĩnh Bình - người từ bỏ 90 công đất khóm nói trong tiếc nuối:
“Mình trồng nó hay bị chết đỏ thân, có cây trồng chưa ra trái đã héo rồi chết. Mời kỹ sư về cũng không tìm ra nguyên nhân, họ đưa thuốc cho phun xịt nhưng cũng cầm cự được một thời gian, nắng hạn lên là cây xìu xuống lại. Nó nhiều bệnh lắm, nhổ lên là thấy có con gì li ti dưới gốc”.
Sau nhiều thăng trầm, từ 2015 đến nay, nông dân tự tìm hướng đi mới cho rẫy khóm. Đối với diện tích bỏ khóm hoàn toàn, nông dân Vĩnh Lộc và Vĩnh Bình làm lúa kết hợp nuôi tôm. Nhưng mà sản xuất lúa – tôm bây giờ rủi ro nhiều quá, trung bình mỗi hecta chỉ lãi khoảng 40 triệu đồng, con tôm thì “đỏng đảnh” nên có vụ không thành.
Tiên phong nhất trong phong trào đổi thay diện mạo cây khóm Ba Đình là cách làm hay của xã Vĩnh Tuy, Vĩnh Tuy duy trì được diện tích khóm xen với những ruộng lúa, đồng tôm. Mùa mưa, sản xuất lúa, khi nước mặn về thì thả tôm trong các mương bao quanh rẫy khóm. Mỗi năm nông dân đã thu về 100 triệu đồng/hecta với riêng cây khóm, chưa tính đến lúa và tôm.
Ông Nguyễn Văn Tư, ngụ ấp Phước An, xã Vĩnh Tuy, tỉnh An Giang hồn hậu nói:
“Khi thu hoạch lúa bệ (lúa trồng ven rẫy khóm) thì còn gốc rạ rũ xuống, lúc đó mình thả tôm, tôm nó có chất tảo để ăn. Lấy tiền bán tôm đó cung ngược lại cho việc mua phân thuốc trồng khóm. Nói vậy chứ trên 20 công đất này mỗi năm tôi thu về 200 triệu đó. Năm nào khóm rớt giá cũng kiếm được trăm ngoài triệu, sống vậy cũng được rồi”.
Thấy hay thì học, Vĩnh Bình và Vĩnh Lộc cũng có một số diện tích được chuyển đổi theo mô hình của Vĩnh Tuy. Riêng Vĩnh Bình có ý tưởng thiết kế tour du lịch sinh thái trên khóm, dưới tôm kết hợp cua – cá – vọp.
Ngoài ra, dân xứ Ba Đình cũng khéo tay hay làm, chế biến nhiều món ngon từ khóm, nào là: mứt khóm, kẹo khóm, bánh khóm, khóm sấy, củ hủ khóm xào tôm. Đặc biệt, người ta chế biến ra nước màu khóm dùng để ướp cá kho, mỗi lần tộ cá sôi lên là mùi hương phảng phất, vị khóm thấm vào khứa cá, ăn rất bắt cơm. Bấy nhiêu đó cũng đủ để du khách muốn về Ba Đình để trải nghiệm phong cảnh ền quê một lần cho biết.
Chủ tịch HĐND xã Vĩnh Bình Võ Thanh Xuân hoạch định:
“Ở Ba Đình có con vọp hay trú ngụ trong bụi dừa nước, thịt ngọt mà không có chứa cát. Trong liếp khóm thì trồng lúa bệ cũng là lúa sạch, dưới đìa khóm thì nuôi tôm. Cuối tuần có những tuyến xe đưa các gia đình ở thành thị về đây, vừa trải nghiệm đặt lợp cá bống, bắt vọp, đặt lú bắt tôm, tìm hiểu về khóm, ăn khóm, làm bánh khóm,… là những điều mà chúng tôi mong muốn sẽ thực hiện được trong tương lai”.
Dù cây khóm Ba Đình có rất nhiều triển vọng để tiến xa hơn trên thị trường nhưng cái quan trọng nhất vẫn phải hồi phục lại diện tích cây khóm trên vùng khóm chết. Nhiều thế hệ nông dân ở Ba Đình đã gắn bó máu thịt với cây khóm nhưng họ vẫn không giữ nổi cây khóm nên cứ mãi ước mơ về một vùng khóm bạt ngàn cùng chung sống với cây lúa, con tôm.
Một vùng rộng lớn như Ba Đình giờ chỉ còn mỗi Vĩnh Tuy là giữ được “phong độ”, ngành nông nghiệp địa phương phải tìm được kỹ sư giỏi để giúp nông dân phục hồi lại diện tích khóm ở Vĩnh Bình và Vĩnh Lộc cho bằng Vĩnh Tuy. Khi khóm hồi sinh, mô hình tôm – khóm – lúa bật dậy sẽ lại một lần nữa đưa Ba Đình rực rỡ như thuở nào.