Vấn đề là tăng trưởng của Quý 4, theo các chuyên gia, ít nhất tốc độ tăng GDP ít nhất cũng phải hơn 8,4, thậm chí cao hơn nữa mới hiện thực hóa được kì vọng đề ra từ đầu năm. Dư địa của nền kinh tế không nhiều nhưng cũng không ít nếu chính sách điều hành kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ, tiếp tục phát huy được hiệu quả.
Dư địa chính sách tiền tệ vẫn đủ để hỗ trợ tăng trưởng Quý 4
Bộ phận Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore) dự báo mục tiêu tăng trưởng Quý 4 ở mức 7,2%, nâng mức dự báo cả năm của toàn bộ nền kinh tế lên 7,7%. Đây là lần thứ 3 liên tiếp ngân hàng uy tín hàng đầu châu Á nâng mức dự báo tăng trưởng của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng theo UBO, Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu nếu kinh tế Quý 4 khởi sắc.
Có một vấn đề UBO nêu ra như là rào cản lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam trong Quý 4 là dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ của chúng ta không còn nhiều. Hơn nữa, dự báo về sự tiếp tục suy yếu của đồng USD càng khiến cho nền kinh tế gặp khó khăn nhiều hơn. Lý do?
Thứ nhất, nếu tiếp tục duy trì lãi suất thấp, Việt Nam rất khó duy trì tỷ lệ lạm phát dưới 4%
Thứ hai, đồng đô la Mỹ suy yếu ảnh hưởng đến việc điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong những tháng cuối năm.
Tuy nhiên, theo giới phân tích trong nước, hai vấn đề mà UBO nêu ra không đáng lo ngại khi mà ngưỡng lạm phát Quốc hội cho phép ở mức 4,5% trong khi tỷ lệ này tính đến hết Quý 3 còn dưới 4%. Điều này đồng nghĩa với việc Ngân hàng Nhà nước còn có lý do duy trì lãi suất ở mức hợp lý, qua đó tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn tiền rẻ. Cùng vì lý do này mà chúng ta có thể duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng ít nhất là trong khoảng thời gian từ nay đến cuối năm. Tất nhiên, nới lỏng ở đây là… nới lỏng có kiểm soát qua đó tạo dư địa cho năm 2026 tiếp theo. Anh Rich Nguyễn – Chuyên gia về tài chính, cho biết.
“Chúng ta có chính sách tiền tệ nới lỏng khi mà chúng ta thấy các chính sách điều hành rất là linh hoạt, lãi suất thì giảm, hỗ trợ tín dụng rồi mục tiêu tăng trưởng tín dụng cũng phải 16%, rồi điều hành tỷ giá cũng rất linh hoạt. Rồi thì chính sách tài khóa mở rộng cũng được đánh giá là hợp lý và có trọng điểm ví dụ như phấn đấu về thu ngân sách tăng ít nhất 20% so với dự toán. Chúng ta cũng tiết kiệm được chi thường xuyên 10%. Rồi các chính sách như ễn giảm, gia hạn thuế cho doanh nghiệp cũng như người dân, thúc đẩy giải ngân đầu tư công, nâng hạng thị trường chứng khoán”…
Một điểm nữa, đồng đô la suy yếu ảnh hưởng đến việc điều hành nhưng lại có lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu khi các mặt hàng của chúng ta vào các nước châu Âu, châu Á hấp dẫn hơn về mặt giá cả. Hơn thế nữa, do đồng bạc xạnh giảm giá trị, chúng ta cũng sẽ kiểm soát lạm phát hay trong kinh tế học gọi là nhập khẩu lạm phát tốt hơn. Cụ thể thì hàng nhập khẩu từ các quốc gia sử dụng đồng tiền mạnh hơn so với tiền đồng trong bối cảnh đồng đô la suy yếu có thể trở nên đắt hơn, nhưng hàng nhập khẩu từ Mỹ hoặc các nước có đồng tiền liên quan đến USD sẽ rẻ hơn, giúp kiềm chế lạm phát chung. Vấn đề là gần như tất cả các mặt hàng nhập khẩu từ các quốc gia của chúng ta đều thanh toán bằng đô la Mỹ.
Chính vì thế, việc duy trì mặt bằng lãi suất từ 5 đến 5,2% như hiện nay không quá đáng ngại, nhất là khi chúng ta đã, đang kiểm soát rất tốt tỷ lệ lạm phát trong nước, với mức tăng CPI 3,27%, cũng như lạm phát nhập khẩu khó tăng thêm nếu đồng đô la Mỹ tiếp tục suy yếu. Theo ông Nguyễn Hưng – Tổng Giám đốc Ngân hàng Tiên Phong Bank, Ngân hàng nhà nước có lý do để duy trì mức lãi suất ổn định vì cơ quan này còn có những công cụ khác. Trong đó, phương án kiểm soát chặt chẽ hạn mức cho vay, nhất là dòng vốn đầu tư vào các lĩnh vực nguy cơ cao, ví dụ như đầu tư bất động sản, được coi như công cụ hữu hiệu nhằm đảm bảo dòng vốn đầu tư đúng lúc, đúng chỗ.
“Tôi nghĩ Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giữ mức lãi suất ổn định trong thời gian tới hoặc có điều chỉnh thì cũng ở mức không đáng kể bởi vì thực tế ra mặc dù chúng ta cũng có những áp lực lạm phát nhất định tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước vẫn có những công cụ khác, đặc biệt là về hạn mức tăng trưởng tín dụng cũng được được thắt chặt để kiểm soát dòng vốn vào các lĩnh vực ưu tiên. Vì thế chúng tôi tin rằng chúng ta vẫn có thể duy trì mức lãi suất ổn định trong năm nay”…
Giải ngân đầu tư công và xuất khẩu: Hai động lực giữ nhịp tăng trưởng cuối năm
Về quan điểm này, ông Nguyễn Bích Lâm – Nguyên Cục trưởng Cục Thống kê, cho rằng, việc duy trì lạm phát ở mức dưới 4% rất đáng ghi nhận trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước duy trì lãi suất tương đối thấp trong suốt thời gian 1 năm trở lại đây.
“Năm nay mà lạm phát 4% cũng là cực kì thành công bởi vì nếu chúng ta dùng các giải pháp quá thắt chặt để kiểm soát lạm phát khoảng 4 hoặc dưới 4% mà cản trở sự phát triển của nền kinh tế thì lúc đó chính sách tài khóa cũng như các gói hỗ trợ cũng kém hiệu quả”…
Dư địa tăng trưởng căn cứ chính sách tiền tệ nới lỏng còn một lý do khác nữa khi mà tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công thời điểm này mới được hơn 50%, dự báo từ nay đến cuối năm còn số tiền hơn 450 nghìn tỷ đồng đổ vào nền kinh tế thông qua các khoản đầu tư bằng tiền ngân sách. Theo đó, các các trụ cột khác của nền kinh tế tăng trưởng theo, như tiêu dùng giai đoạn cuối năm chẳng hạn, cũng được dự báo tăng trưởng tích cực. Theo TS. Cấn Văn Lực, nếu hoàn thành nhiệm vụ thủ tướng giao cho bộ, ban, ngành, địa phương, riêng đầu tư công đóng góp cho tăng trưởng GDP từ 1,8 cho đến 2% chưa kể lực tác động tích cực đối với các ngành nghề khác.
“Giải ngân đầu tư công là một vấn đề cực kì quan trọng, kế hoạch của chúng ta là giải ngân gần 900 nghìn tỷ đồng, tương đương 32 tỷ đô la Mỹ. Thủ tướng yêu cầu là phải giải ngân hết 100%, tức là 32 tỷ đô la Mỹ, tăng 31% so với năm ngoái. Nếu chúng ta giải ngân hết số tiền này thì đóng góp cho nền kinh tế 1,8 đến 2%”…
Ngoài ra, áp lực tỷ giá, nếu có, cũng không đáng lo ngại do nguồn kiều hối dồi dào hơn trong giai đoạn cuối năm, đảm bảo giá trị của tiền đồng Việt Nam giữ ở trạng thái ổn định kể cả khi chính sách tiền tệ nới lỏng. Đó là những yếu tố quan trọng giúp cho tăng trưởng Quý 4 duy trì nhịp độ tăng trưởng ổn định ở mức cao, giúp cho nền kinh tế hoàn thành mục tiêu tăng trưởng cả năm hơn 8%, hướng tới mức tăng trưởng 2 con số trong các năm từ nay đến 2030.