Trong bối cảnh Hoa Kỳ áp dụng chính sách thuế đối ứng với hàng loạt đối tác thương mại, việc gia tăng tỉ lệ tận dụng quy tắc xuất xứ trong Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà còn là bước đi chiến lược giúp doanh nghiệp Việt Nam giảm thiểu rủi ro và củng cố thị phần tại châu Âu.
Sau 5 năm thực thi EVFTA, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – EU tăng ổn định, từ 55,4 tỷ USD năm 2020 lên 68,3 tỷ USD năm 2024. Hiệp định này trở thành đòn bẩy quan trọng giúp hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường châu Âu, đặc biệt ở các nhóm nông sản, thủy sản, dệt may, da giày. Tuy nhiên, tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan vẫn còn khiêm tốn do nhiều mặt hàng chưa đáp ứng đầy đủ quy tắc xuất xứ.
Vấn đề này được đặt ra tại Tọa đàm “Tận dụng quy tắc xuất xứ trong EVFTA và ý nghĩa đối với doanh nghiệp trong bối cảnh chính sách thuế đối ứng” do Tạp chí Công Thương tổ chức sáng 9/10.
Theo bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), từ khi EVFTA có hiệu lực (8/2020) đến năm 2024, kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng gần ba lần, từ 17,9 tỷ USD lên 51,72 tỷ USD. Giá trị hàng hóa được cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) tăng mạnh, từ 2,66 tỷ lên 18,13 tỷ USD, tương đương tỉ lệ tận dụng ưu đãi tăng từ 14,8% lên 35,1%.
“Đây là con số tích cực, thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức và năng lực tuân thủ quy tắc xuất xứ của doanh nghiệp Việt Nam”, bà Hiền nhấn mạnh. Tuy nhiên, mức độ tận dụng giữa các ngành hàng vẫn chênh lệch: da giày đạt gần 100%, trong khi dệt may mới hơn 30%. Các nước có cảng biển như Đức, Hà Lan cũng ghi nhận tỷ lệ sử dụng C/O cao hơn so với các nước nằm sâu trong nội địa EU.
Bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Da – Giày – Túi xách Việt Nam (LEFASO), cho biết EVFTA mang lại lợi thế lớn khi nhiều sản phẩm giày dép được hưởng thuế suất 0%. Quy tắc xuất xứ chỉ yêu cầu đạt 40% giá trị gia tăng tại Việt Nam, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Nhờ đó, xuất khẩu da giày sang EU duy trì tăng trưởng 14%/năm. Tuy nhiên, EU là thị trường “khó tính”, đòi hỏi tiêu chuẩn cao về môi trường, hóa chất, báo cáo bền vững. Theo bà Xuân, nếu không đầu tư mạnh cho sản xuất xanh và nh bạch chuỗi cung ứng, doanh nghiệp nhỏ và vừa khó có thể trụ vững.
Ông Ngô Minh Phương, Giám đốc điều hành Công ty TNHH Việt Trường, chia sẻ rằng nhờ EVFTA, xuất khẩu thủy sản của doanh nghiệp sang EU tăng khoảng 200%. Việc thuế giảm từ 6–22% xuống 0% giúp sản phẩm Việt cạnh tranh hơn hẳn so với Ấn Độ, Indonesia. “Công ty kiểm soát chặt nguồn nguyên liệu, truy xuất nguồn gốc theo đúng quy định để đảm bảo chứng nhận xuất xứ. Nhờ vậy, khách hàng châu Âu rất yên tâm”, ông Phương nói.
Tận dụng EVFTA – chìa khóa giảm rủi ro và nâng năng lực cạnh tranh
Tuy nhiên, khi Hoa Kỳ bắt đầu áp thuế đối ứng từ tháng 4/2025, doanh nghiệp buộc phải linh hoạt chuyển hướng, mở rộng thị trường và nâng giá trị sản phẩm để tránh phụ thuộc. Ông Phương nhấn mạnh: “Không thể chuyển toàn bộ hàng từ Mỹ sang EU trong thời gian ngắn. Doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ chính sách và định hướng từ Nhà nước”.
Từ Washington D.C., ông Đỗ Ngọc Hưng, Tham tán thương mại Việt Nam tại Hoa Kỳ, cho biết chính sách thuế đối ứng đang trở thành công cụ thương mại chủ chốt của Mỹ. Từ tháng 4/2025, mức thuế 10–50% đã được áp với hơn 180 đối tác, trong đó hàng Việt chịu mức 20%. “Đây là chính sách dài hạn, dựa trên nguyên tắc thâm hụt thương mại, buộc Việt Nam phải phản ứng linh hoạt – vừa qua đàm phán, vừa tận dụng tối đa các FTA hiện có”, ông Hưng nói.
Theo bà Trịnh Thị Thu Hiền, thực hiện Chỉ thị 29/CT-TTg, Bộ Công Thương đang triển khai nhiều giải pháp: hoàn thiện cơ chế xác định xuất xứ hàng hóa, tăng cường tập huấn “cầm tay chỉ việc” cho doanh nghiệp, phối hợp hải quan EU trong xác nh xuất xứ và cải cách thủ tục hành chính.
Các chuyên gia thống nhất rằng, trong bối cảnh Hoa Kỳ áp thuế đối ứng, việc tận dụng hiệu quả EVFTA chính là “đường vòng” giúp hàng Việt giảm thiểu tác động và củng cố chỗ đứng ở châu Âu. Bà Phan Thị Thanh Xuân cảnh báo: “Nếu Việt Nam không tận dụng nhanh lợi thế EVFTA, cơ hội sẽ thuộc về đối thủ như Indonesia – nước đang đàm phán FTA với EU. Doanh nghiệp cần tăng nội lực, còn Nhà nước phải hỗ trợ thủ tục, xúc tiến thương mại và giảm chi phí tuân thủ.”
Ông Đỗ Ngọc Hưng khẳng định thêm: “Quy tắc xuất xứ là sợi dây nối giữa chính sách và năng lực sản xuất thực tế. Nếu thuế đối ứng là thách thức, thì các FTA – đặc biệt là EVFTA – chính là cơ hội để doanh nghiệp Việt chứng nh vị thế trên thị trường toàn cầu.”