Ngày 24/12, 2 học sinh sinh năm 2011 trong lúc ra hồ công viên trên địa bàn xã Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An chơi và câu cá ven bờ đã bị trơn trượt, ngã xuống nước sâu dẫn đến tai nạn đuối nước.
Trước đó, trong vòng chưa đầy một tháng, Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP.HCM) tiếp nhận hai trường hợp trẻ em tử vong do đuối nước tại hồ bơi dù hồ bơi có người giám sát và nhân viên cứu hộ, nhưng do phát hiện muộn, các em rơi vào hôn mê sâu, sau đó đã tử vong.
Mỗi ca đuối nước không chỉ là tai nạn nhất thời, cướp đi sinh mạng của trẻ em mà còn là một biến cố, gây ra những tổn thất về tâm lý đối với gia đình, người thân vô cùng lớn.
Qua đánh giá tại một số tỉnh trong ền Trung, theo PGS.TS Phạm Việt Cường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phòng chống Chấn thương, Đại học Y tế công cộng, đuối nước gây ra những gánh nặng về mặt xã hội: "Thứ nhất là về tâm lý của người cha mẹ. Có những cha mẹ trong khoảng tầm một năm sau, người ta thực sự người ta không làm được cái việc gì khác. Tại vì cái tâm lý của người ta về cái sự mất mát đấy nó ảnh hưởng rất nhiều. Một đứa trẻ con hai ba tuổi mà có thể bị đuối nước mà thậm chí có nhiều gia đình khi mà thậm chí họ nhìn thấy con họ rơi xuống nước mà họ không làm gì được. Đó là một cái vết mà thương tâm lý rất nặng nề. Cho nên là về khía cạnh xã hội thì nó ảnh hưởng rất là nhiều đến cha mẹ. Còn về sự tổn hại về mặt kinh tế thì thông qua các cái tổn hại về mặt tâm lý xã hội và giảm năng lực việc làm thì nó cũng được đánh giá."
Mỗi năm Việt Nam có gần 2.000 trẻ em tử vong do đuối nước, cao gấp nhiều lần so với các quốc gia khác trong khu vực. Theo Tổ chức y tế thế giới, đuối nước là nguyên nhân gây tử vong hàng thứ 3 đối với trẻ từ 5-16 tuổi. Tại Việt Nam, gần một phần tư trẻ tử vong ở độ tuổi này, phần lớn các trường hợp tử vong xảy ra tại khu vực nông thôn, vùng sông nước, nơi trẻ em tiếp xúc nhiều với ao hồ, kênh rạch, sông suối, nhưng lại thiếu kiến thức và kỹ năng an toàn.
Bà Đoàn Thu Huyền, Giám đốc Quốc gia chương trình Phòng chống đuối nước cho biết, hiện nay các dữ liệu về tình trạng đuối nước tại Việt Nam vẫn còn những khoảng trống, đặc biệt là những trường hợp trẻ bị di chứng sau đuối nước: "Hiện nay, chúng ta hầu hết là ghi nhận đuối nước tử vong. Còn những trường hợp đuối nước không tử vong, ngành y tế và cộng đồng không ghi nhận. Điều này rất nguy hiểm bởi vì chúng ta sẽ không thể đánh giá được cái nguy cơ của đối và những cái hậu quả sau đó. Ví dụ như trẻ không tử vong nhưng mà trẻ có thể bị những cái gánh nặng về di tật hoặc là những cái tổn thương vĩnh viễn sau khi mà trẻ bị tai nạn."
Từ kết quả nghiên cứu trong khuôn khổ dự án Hỗ trợ can thiệp nhằm phòng ngừa đuối nước ở trẻ em một cách hiệu quả và bền vững” (Tổ chức Campaign for Tobacco Free Kids), nhóm nghiên cứu chỉ ra, tổn thất kinh tế do đuối nước trẻ em gồm: chi phí trực tiếp nuôi trẻ (chi tiêu từ ngân sách nhà nước, chi phí do gia đình chi trả và thời gian cha mẹ dành chăm sóc cho con cái) và nguồn thu nhập từ tương lai (năng suất lao động tương lai bị mất đi của đứa trẻ bị đuối nước, giá trị hiện tại của thu nhập trọn đời, năng suất lao động bị mất của một thành viên trong gia đình).
TS Nguyễn Ngọc Anh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát triển (DEPOCEN) phân tích: "Một đứa trẻ chưa đến 18 tuổi bị mất đi, chi phí mất đi trong cả vòng đời đóng góp vào trung bình khoảng 8 tỷ/ trẻ. Chi phí nuôi dạy trẻ xấp xỉ 20 triệu/ đứa, chi phí thời gian của phụ huynh từ 8-10 triệu. Nếu một đứa trẻ mất, năng suất lao động của người thân bị mất khoảng 24 triệu. Một năm, Việt Nam mất 2.000 trẻ, tương đương mất đi 15 nghìn tỷ đồng.".
Ngoài ra, đối với những trẻ đuối nước được cứu sống còn gây ra những gánh nặng kinh tế, bao gồm chi phí y tế cứu chữa và điều trị phục hội. Một số trường hợp trẻ không phục hồi hoàn toàn (như bị chết não) sẽ tạo ra một gánh nặng chăm sóc và chi phí y tế bền vững cho gia đình và xã hội, dù hiện tại Việt Nam vẫn chưa có số liệu thống kê đầy đủ để tính toán chính xác khoản này.
Một số ý kiến cho rằng, việc một đứa trẻ tử vong do đuối nước giống như việc một dự án đầu tư đầy triển vọng bị dừng lại đột ngột. Xã hội không chỉ mất đi toàn bộ số vốn đã bỏ ra để chăm sóc, nuôi dạy (chi phí nuôi dưỡng) mà còn mất đi toàn bộ "lợi nhuận" hay giá trị thặng dư mà dự án đó có thể tạo ra trong hàng chục năm tương lai (thu nhập trọn đời), đồng thời làm suy yếu sức lao động của cha mẹ- những người quản lý dự án đó.
Bên cạnh đó, đuối nước không chỉ làm thiệt hại cho nền kinh tế mà còn là gánh nặng kìm hãm sự phát triển tại nhiều địa phương.
TS Nguyễn Ngọc Anh cho biết, nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của chương trình Can thiệp bơi an toàn tại Việt Nam cho thấy, trong giai đoạn 2019-2024, các lớp dạy bơi an toàn được triển khai tại 15 tỉnh, thành với 63 nghìn trẻ được dậy bơi an toàn, hơn 1.500 giáo viên thể dục được cấp chứng nhận dạy bơi, hơn 30.000 cha mẹ, người chăm sóc trẻ, giáo viên mầm non được hướng dẫn về phòng chống đuối nước trẻ em. Trong khi đó, chi phí để thực hiện chương trình vào khoảng 30 tỷ đồng.
Kết quả phân tích chi phí, hiệu quả cho thấy chương trình can thiệp Bơi an toàn cho trẻ em có mức hoàn vốn đầu tư (ROI) cao, 18,9 - 20,1, lợi ích ước tính của chương trình mang lại từ khoảng 568,8 – 604,8 tỷ đồng.
Kết quả của chương trình dạy bơi an toàn giai đoạn 2018 - 2025, tỉ suất tử vong do đuối nước tại các địa bàn can thiệp đã giảm 16% – một chỉ số rõ rệt nh chứng cho sự hiệu quả của việc trang bị kỹ năng an toàn và bơi lội cho trẻ.
Mục tiêu của Việt Nam phấn đấu 60% trẻ em từ 6-15 tuổi biết kỹ năng an toàn trong môi trường nước năm 2025 và 70% vào năm 2030; 50% trẻ em từ 6 đến dưới 16 tuổi biết bơi an toàn năm 2025 và 60% vào năm 2030.