Nơi hoang sơ và đầy quyến rũ này, đến nay vẫn còn lưu lại nhiều câu chuyện huyền thoại. Một nơi âm u đầy sương lam chướng khí nhưng lại là vùng đất khởi đầu mới cho dòng người đi khai sơn phá thạch đất phương Nam rồi ăn nên làm ra như hôm nay.
Trăm năm đi qua, U Minh Hạ vẫn là đại ngàn xanh thẫm bảo bọc sinh kế cho lớp thế hệ con cháu đời sau bám đất, bám rừng.
Miền đất thiêng huyền thoại giữa đại ngàn
Rừng U Minh nằm dọc theo ền Tây Nam Bộ, hướng về vịnh Thái Lan, trải dài từ sông Ông Đốc ở phía Nam (tỉnh Cà Mau) cho đến sông Cái Lớn ở phía Bắc (tỉnh Kiên Giang). Hai dòng sông Trèm Trẹm và Cái Tàu hòa quyện, chia U Minh thành hai phần gần như bằng nhau, đó là U Minh Thượng ở phía Bắc và U Minh Hạ ở phía Nam.
Rời thành phố Cà Mau chừng 40km là tới cửa rừng ở ấp Vồ Dơi, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời. Không thể bỏ qua đài quan sát ở độ cao 24m, nơi cho cái nhìn toàn cảnh về hàng nghìn hecta rừng rậm rạp soi bóng trên những dòng kênh trong xanh. Rừng U Minh Hạ rộng 45. 000 hecta, nằm trên hai huyện U Minh và Trần Văn Thời, là một trong ba vùng lõi của Khu dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau đã được UNESCO công nhận và bảo tồn.
Thời khẩn hoang, chính hai từ “U Minh” đã kể lên một câu chuyện xa xôi và sâu sắc, với hình ảnh của những khu rừng đen tối, mênh mông và thăm thẳm. Đây là nơi cây cỏ rậm rạp, nước ngập lênh láng, muỗi mòng, thú dữ kéo về trú ngụ, heo rừng, khỉ, kì đà, rắn, trăn, cá sấu,… thứ nào cũng có.
Nhà văn hóa Nhâm Hùng kể rằng: “Nhà văn Nguyễn Văn Bổng trong cuốn Đất Rừng Phương Nam có nói một câu thế này: Người khẩn hoang đến đây là mũi Cà Mau, một là nhảy xuống biển Thái Bình Dương mà chết, hai là phải chống chọi để sinh tồn. Có nghĩa rằng, U Minh là chốn rừng thiêng nước độc. Ai mà về đây thì hoặc là tự tử mà chết hoặc là phải tìm mọi cách để chống chọi với khắc nghiệt của thiên nhiên, thú dữ và bệnh tật để mà tồn tại”.
Theo tài liệu ghi chép, lịch sử khai thác vùng đất U Minh Hạ rầm rộ nhất có thể bắt đầu từ thế kỷ thứ 20, sau khi thực dân Pháp đào con kinh xáng Chắc Băng và kinh xáng Xẻo Rô, tổ chức khai thác rừng tràm và mở đất làm ruộng. Lúc này nhiều người có tiền xin khẩn đất, chiêu mộ tá điền. Dân nghèo ở các tỉnh phía sông Tiền, sông Hậu cũng cũng dắt díu nhau về U Minh Hạ mở đất. Trong tiến trình khai phá, dường như con người và cọp sống gần sát nhau nên nhiều lần cũng chạm trán một mất một còn. Đổi lại, U Minh Hạ có nhiều cá tôm và sản vật thiên nhiên trời phú nuôi sống người dân thuở bần nông.
Theo lời của các bậc cao niên một thời “tung hoành” trong đại ngàn U Minh Hạ thì nơi đây có huyền thoại “rắn thần”. Ngay từ buổi bình nh của lịch sử khẩn hoang, tạo hóa đã ban cho mỗi làng xã một bà mụ vườn, một ông thầy lang và một ông thầy rắn hổ để cứu nhơn độ thế. Rắn hổ ở rừng U Minh Hạ từng là câu chuyện lôi cuốn biết bao người, trong đó có rắn hổ mây. Ở đây, rắn hổ mây “đi mây về gió”, có những con rắn khổng lồ hai đầu quấn vào thân cây còn phần thân thì thả võng xuống vũng, bụng dẹp lép, đong đưa tát nước để bắt cá. Không ghi lại được hình ảnh con rắn khổng lồ là điều đáng tiếc vì không phải ai cũng dễ dàng mục kích được “thần rắn” một lần trong đời. Có lẽ vì thế nên chuyện rắn khổng lồ ở rừng U Minh Hạ cứ nửa hư nửa thực như huyền thoại.
Ông Nguyễn Văn Út, người dân ống tại xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời từng vào rừng U nh Hạ mưu sinh kể lại: “Con rắn hổ mây ở U Minh Hạ có vài con, nó cắn là tàn đời luôn. Nói chung anh em tôi ở đây từng làm ruộng một thời gian mới biết, tài nguyên ở đây nhiều lắm, nào là: trăn, rắn, nai, ong mật, khỉ… nó vô ở. Mà vô rừng là vái “ông thầy” phù hộ cho mình yên ổn làm ăn”.
Huyền thoại kế tiếp là ở đây sinh ra những ông tổ của nghề “thầy đìa”. “Thầy đìa” là những người có khả năng đặc biệt, họ chỉ cần thò chân xuống nước, hoặc áp tai lên ệng đìa là có thể biết được dưới đìa có nhiều hay ít cá. Thú vị hơn, các thầy đìa còn rình nghe tiếng cá ngớp, ục, táp mồi, quẫy đuôi hay thở. Nhiều người cẩn thận, họ phải thọc tay xuống mé đìa tìm dấu cá cọ mình, hay lặn xuống để xem có đụng nhiều cá hay không. Sau khi xác định cá nhiều hay ít, thầy đìa ra giá cuối cùng để thầu đoạn kênh rồi dùng lưới chụp.
Hiếm hoi cái nghề này bước ra từ huyền thoại nay có hậu thế kế thừa, anh Nguyễn Hữu Duyên – người hành nghề “thầy đìa” ở huyện U Minh cho biết: “Ba tôi đi làm nghề đìa này rất là lâu, truyền lại cho tui là đời thứ ba rồi. Mình lại mình quan sát con cá trắng, con cá sặc, cá bổi... xem nó có nhiều hay không, muốn biết cho chính xác thì phải lội xuống đìa. Sau đó thương lượng với chủ nhà mua lại để bắt đi bán”.
Từ rừng hoang đến điểm sáng sinh thái và du lịch
Lịch sử sinh tồn ở U Minh Hạ cũng đề cập đến việc thuần hóa những loài động vật hoang dã, trong đó thành công nhất là dụ ong rừng làm tổ lấy mật. Dưới những tán rừng tràm, ong được con người làm nhà cho ở mãi tận rừng sâu. Từ tháng 2 trở đi chuẩn bị vào mùa gác kèo ong. Vì thời điểm này là mùa nắng, rừng khô, bông tràm đua nở tiết ra mùi hương hoa tràm, theo tập tính của ong ở đâu có hương hoa thơm là chúng kéo đến hút mật và làm tổ. Tùy người “khéo tay”, mật ong được thu hoạch sau 30 ngày. Còn nếu gác kèo không khéo, có khi mấy tháng mới thu được một ít. Để thu hoạch mật đúng thời điểm phải thăm nom thường xuyên.
Cứ thế người “ăn ong” rành rẽ mọi ngóc ngách trong khu rừng. Để lấy mật, người thợ phải mang theo bình phun khói hoặc đuốc con cúi bằng xơ dừa, quần áo dài tay, lưới trùm đầu, bao tay, dao và các dụng cụ chứa tổ ong và mật. Họ dùng dao cắt, tách phần mật ra khỏi phần tàng, chừa lại khoảng 1/3 tàng để con ong tiếp tục làm tổ. Một tổ như thế này, nếu khai thác tốt có thể lấy mật từ 3-4 lần.
Ông Hồ Văn Hoàng, ngụ xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau cho biết: “Đời ông nội tới đời cha, đời chú, chú ở trong rừng từ năm 13 tuổi tới giờ chú 58 tuổi rồi đó. Cái cảnh sống trong rừng thì nói thẳng ra nó khó trăm ngàn lần ở ngoài, khổ cực, khó khăn, muốn lấy đồng tiền cực lắm, không có như ở ngoài mua bán này kia. Mình cứ mần mùa này rồi mùa kia mình lấy tiền. Cái nghề ông cha để lại nên nó có cái niềm vui như vậy đó, ra xóm mình bực bội lắm, rồi mình phải về rừng”.
Hết huyền thoại đất, rồi đến huyền thoại con người. Người U Minh Hạ xưa kia phần lớn đi làm chỉ đủ nuôi ệng ăn qua ngày, nhưng nổi tiếng hào sảng, thương người hơn cả thân mình. Ngày nay, người U Minh Hạ vẫn một nét thủy chung, đậm đà, ai vào nhà cũng coi như người thân ruột thịt. Nhà báo Nguyễn Tiến Trình ca ngợi người U Minh Hạ như thế này: “Dân Cà Mau mình rất là tự nhiên hồn hậu, dường như là bụng dạ họ làm sao là đem ra đãi tiếp khách y như vậy. Cho nên khách du lịch về Cà Mau là cứ tưởng như họ đã về nhà của họ vậy đó”.
Sau những vụ cháy đã lấy đi đáng kể một diện tích lớn cây tràm thì hiện nay diện tích rừng U Minh Hạ thuộc địa phận tỉnh Cà Mau còn 35.000 hecta. Hệ sinh thái rừng tràm trên cả nước, duy nhất chỉ còn lại tại Cà Mau khoảng 3.000 hecta là chưa bị tác động. Hiện rừng có hơn 100 loài thực vật và 198 loài động vật gồm: Thú, chim, bò sát, lưỡng cư và cá nước ngọt. Đóng vai trò quan trọng với sứ mệnh bảo tồn và tái tạo giá trị cảnh quan thiên nhiên, giống loài.
Là khu dự trữ sinh quyển thế giới, mặc nhiên trở thành điểm đến trên bản đồ du lịch cả nước. Riêng sản lượng mật ong thu hoạch được khoảng 700 tấn/năm, trong đó nghề gác kèo ong của nông dân chiếm trọn 500 tấn/ năm. Mật ong U Minh lọt top 100 đặc sản quà tặng Việt Nam với mức giá không thấp hơn 400 ngàn đồng/ lít. Đây là sinh kế bao đời nay góp phần nâng cao mức sống của người dân xứ sở U Minh.
Anh Phạm Duy Khanh – Chủ điểm du lịch sinh thái Mười Ngọt, xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời đang sở hữu 1.000 tổ ong mật đang khai thác du lịch hồ hỡi cho biết: “Chỗ đặc biệt của anh là tán rừng nằm gần với vườn quốc gia U Minh Hạ, đây là nơi có diện tích rừng thiên nhiên rất là lớn nên ong bay về rất nhiều. Khách có thể đi bộ hoặc ngồi dưới thuyền để thấy rất nhiều tổ ong và nghe người thợ gác kèo giải thích thêm về cách thức gác kèo giữ ong. Khách hào hứng muốn thử một lần đến tận kề bên ổ ong để biết cái cảm giác hồi hộp sắp sửa “đánh trận” lớn có hàng ngàn quân là con ong. Sau đó ngồi lại dưới tán rừng đó để ăn những sản phẩm mình thu hoạch thì cảm tưởng của khách rất hớn hở, vui vẻ”.
U Minh Hạ ngày nay được khai mở và đầu tư hạ tầng để phát triển đồng bộ với các địa phương khác. Chỉ tính riêng giai đoạn từ 2015 - 2020, huyện U Minh đã huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp 28 công trình trường học, với tổng kinh phí gần 90 tỷ đồng; xây dựng mới 98 tuyến lộ với chiều dài 179,5 km. Chuyện thu nhập vài trăm triệu đồng/hộ/năm không còn lạ lẫm ở ệt rừng U Minh Hạ. Ở U Minh cái gì cũng có, từ khách sạn máy lạnh, hàng quán sang trọng đến phố chợ bán buôn hàng hiệu.
Đặc biệt, khai thác du lịch dưới tan rừng U Minh theo hướng tái hiện thời khẩn hoang là một trong những chiến lược đột phá, đã mang về thành công bước đầu. Các nhà vườn “thai nghén” và cho ra đời những loại hình du lịch vừa bảo tồn vừa phát huy tài nguyên sẵn có như: Câu cá, bắt rùa, đặt trúm lươn, gác kèo ong dưới tán rừng U Minh Hạ đã giữ chân du khách dễ dàng. Sự kiện “ Hương Rừng U Minh” được Cà Mau tổ chức định kì hằng năm vừa bế mạc đã quảng bá hình ảnh vùng đất này đến du khách thập phương, tạo cơ hội để ngành du lịch bức phá, đưa U Minh trở thành điểm nhấn độc đáo ở cực nam của tổ quốc.
U Minh Hạ ngày nay đất rừng tươi tốt, xóm làng văn nh. Về đến U Minh Hạ tràm xanh, nước đỏ và tình người ở đây cho chúng ta cảm giác gần gũi với thiên nhiên hoang dã và sống lại một thời mở đất phương Nam.