Các thế hệ cán bộ, phóng viên, nhân viên, kỹ thuật viên của Đài, không ai được đào tạo bài bản về phát thanh nhưng đã làm nên một Đài Phát thanh vang danh, lẫy lừng, tạo dấu ấn đặc biệt trong lịch sử báo chí Việt Nam nói chung và ngành phát thanh nói riêng.
Nhân kỉ niệm 100 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, mời quý vị và các bạn cùng ôn lại những ký ức vang bóng của Đài Nam Bộ Kháng chiến – đài phát thanh đầu tiên của vùng Tây Nam Bộ.
Hành trình dựng Đài giữa chiến khu
Những năm 1948, máy thu thanh ở Sài Gòn bỗng dưng bán rất chạy bởi mọi người kháo nhau rằng: “Có một đài phát thanh kháng chiến tên là Tiếng nói Nam Bộ, có đài là có chánh phủ trong bưng”. Đúng là như vậy, Đài Nam Bộ Kháng chiến ra đời năm 1947 tại Đồng Tháp Mười (Long An); sau đó chuyển về Thới Bình, Đầm Dơi, Ngọc Hiển, U Minh (Cà Mau); có thời gian đóng tại Kiên Giang, Bạc Liêu. Có lúc, Đài đổi tên thành Đài Tiếng nói Nam Bộ.
Bà Bùi Thị Ngàn – cựu giao liên của Đài tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến giai đoạn 1949 – 1950 đang sống tại xã Tân Bằng, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau hồi tưởng: “Hồi đầu tiên Đài về là đóng ở nhà cô, không nhớ rõ nhưng mà ở đâu cũng 5 – 7 tháng gì đó. Khi ở đây các anh có mượn cô đi lấy tin tức, lấy tài liệu dùm mấy anh. Tới chừng mấy anh qua bên sông thì mới xin gia đình cho cô đi, Đài xin cho cô đi làm giao liên. Cô đi lấy tin tức cũng không có xa lắm, sáng cô ôm số tài liệu xuống tới chỗ kênh Sáu nộp cho xưởng giấy Hòa Bình để in báo rồi mang tài liệu về cho các anh làm phát thanh”.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn trường kỳ, gian khổ, việc củng cố niềm tin kháng chiến nhất định thắng lợi trong mọi tầng lớp Nhân dân trở thành nhiệm vụ chính trị bức thiết. Chỉ có Đài Phát thanh là hiệu quả vì không bị giới hạn bởi điều kiện địa lý, địa hình. Đài Phát thanh chính là một vũ khí tuyên truyền lợi hại nhất trong thời điểm bấy giờ.
Tháng 6/1947, Ủy ban Hành chính - Kháng chiến Nam Bộ chỉ đạo lắp ráp Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến để đưa tiếng nói của Chính quyền kháng chiến đến tận các tỉnh ở Nam Bộ. Công lao hình thành Đài thuộc về các bậc tiền bối, như: Trần Bửu Kiếm, Lê Văn Nhàn, Huỳnh Tấn Phát, Giáo sư Lê Văn Huấn. Trong đó, Giáo sư Lê Văn Huấn là người chỉ huy toàn thể cán bộ, nhân viên tập trung đọc sách rồi bắt tay vào thực tế với niềm tin “thực tế lao động sẽ dạy ta”.
Sau những pha vượt chông gai chuyển thiết bị từ nội thành về bưng biền, các chú tiến hành lắp thử bên ngoài từng mạch rồi lắp hẳn vào máy, máy gồm có 3 hộp sắt bằng tole lợp nhà cũ xin của người dân trong xã.
Công đoạn dùng cục thạch anh để cho ra làn chủ sóng cực kỳ khó khăn do chỉ có 3 viên nhưng 1 viên bị nứt, 1 viên có tần số tương đương cả ngàn mét không dùng được, chỉ còn 1 viên có thể phát thanh trên làn sóng này. Suốt mấy đêm liền, từ 19 giờ đến 21-22 giờ, các chú kiểm tra trên làn sóng và cuối cùng đã chọn được làn song thích họp cho Đài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến.
Chị Lê Thị Hồng Diễm - Trưởng Ban Quản lý khu di tích Xứ ủy Nam Bộ tại huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An kể như thế này: “Nơi neo đậu của Đài Tiếng nói Nam bộ thời gian đầu chủ yếu là ở địa bàn Hậu Thạnh Đông, Tân Thạnh, tỉnh Long An. Dù trong giai đoạn rất khó nhưng những buổi phát sóng đều có đầy đủ các thành phần như, nhạc hiệu, tin trong nước, xã luận, bình luận và có cả nhạc kịch… Sau này khi Đài chuyển về U Minh, Cà Mau thì càng phát triển, phát sóng thêm nhiều thứ tiếng như Quảng Đông, Khmer… để tất cả người dân Nam bộ có thể hiểu được tiếng nói chính nghĩa của cuộc kháng chiến”.
Đúng 19 giờ, ngày 01/12/1947, bên dưới một đám tràm ở xã Nhơn Hòa Lập, huyện Mộc Hóa, Đài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến chính thức phát sóng buổi đầu tiên. Sau bản nhạc hiệu Tiến quân ca, Giáo sư Phạm Thiều - Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ trực tiếp phát đi lời hiệu triệu của Ủy ban Hành chính - Kháng chiến Nam Bộ đến đồng bào tiếng nói cách mạng và kháng chiến chống quân xâm lược Pháp của Nhân dân Nam Bộ.
Tiếp theo là giai điệu hùng tráng từ bài Diệt Phát Xít của Nguyễn Đình Thi, rồi bài nhạc đệm Lên Đàng của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước phát xen kẽ giữa các bài bình luận, xã luận, tin trong nước, tin về vùng giải phóng, tin về cuộc đấu tranh của Nhân dân vùng bị địch tạm chiếm.
Thời gian đầu, đài chỉ phát 2 buổi/tuần, mỗi buổi 15 phút vào ngày thứ bảy và chủ nhật với cây đàn măng-đô-lin duy nhất nhưng tiếng đàn giòn tan, đầy cảm xúc. Đội ngũ cán bộ Đài lúc này chỉ có khoảng 10 người, bao gồm cả cán bộ kỹ thuật, biên tập viên, phát thanh viên, người phụ trách văn nghệ, bảo vệ. Về sau, đài lớn mạnh dần khi dời về Cà Mau với đội ngũ biên tập thời sự, chính trị và ban văn nghệ, tổng cộng lên đến 60-70 người.
Phát thanh hàng ngày, thời lượng tăng lên 30 phút mỗi ngày, chương trình phong phú hơn, phát cả tiếng Pháp, tiếng Quảng Đông, tiếng Khmer. Điều thú vị là tính chất dã chiến và cơ động của Đài, thỉnh thoảng trong chương trình có chen lẫn tiếng ếch nhái, tiếng gà gáy,... của vùng thôn dã.
Tiếng nói từ chiến khu vang vọng đến hôm nay
Tiếng nói của Đài là niềm hy vọng của đồng bào nhưng là nỗi lo sợ của quân địch. Bắt đầu từ năm 1948, thực dân Pháp bố ráp điên cuồng để “nhổ cỏ tận gốc” Đài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến, nhưng chẳng “thấm tháp” gì với ý chí quyết tâm của những người con ưu tú trong ngành phát thanh. Các chú liên tục di chuyển từ Long An qua Đồng Tháp, xuống Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu; vừa đi vừa phát sóng mà lại là phát sóng trực tiếp. Điển hình như đầu năm 1948, thấy Đồng Tháp Mười tập trung quá nhiều cơ quan đầu não, Ủy ban kháng chiến Hành chính Nam Bộ quyết định dời một số bộ phận về các tỉnh Nam sông Hậu hoạt động.
Chiếc xuồng đầu chở máy nổ và các máy móc đi trước dò đường, lúc vượt sông Tiền thì gặp địch tuần tiễu, nhiều người của Đài phải nhảy xuống sông để trốn thoát. Địch kéo xuồng về Cao Lãnh, rồi rêu rao là đã bắt được Đài Tiếng nói Nam Bộ của Việt Minh nhưng tối đó Đài vẫn phát sóng đúng giờ, gây tiếng vang với quần chúng và làm bẽ bàng sự huênh hoang của quân địch.
Cựu giao liên của Đài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến cho biết: “Cô nhớ có một lần mấy anh đang cho phát thanh thì bị địch bỏ bom, lúc đó cô thấy máy bay địch đảo trên trời, chạy riết về cho mấy anh hay để mình hạ cột phát sóng xuống. Về thì bom địch bỏ ngay cái nhà nấu ăn của các anh Đài phát sóng, cô thì bị bom địch bỏ đẩy văng đi xa, xỉu không biết gì. Cô bị thương, mấy anh mới bồng vô nhà, rồi mấy chị mới tắm rửa cho, cô tỉnh lại mới chở đi xử lý vết thương. Cô bị thương trên đầu, rồi bị thương ở chân, còn mình mẩy thì nghe nói lại là đất đen dính tùm lum hết”.
Với 7 năm hình thành và phát triển, 16 lần di chuyển, 05 lần bị địch tập kích, Đài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến hoàn thành sứ mệnh cách mạng khi phát thanh buổi cuối cùng tại thị xã Cà Mau, đúng vào ngày 01/12/1954, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ. Đài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến ra đời đã đập tan luận điệu của thực dân Pháp khi chúng huênh hoang cho rằng đã bình định Nam bộ, cổ vũ tinh thần yêu nước hướng về kháng chiến.
Đài như một lời hiệu triệu truyền đi thông tin mạnh mẽ về khát khao độc lập; khiến quân thù khiếp sợ. Đài đĩnh đạc tuyên bố với quốc dân và đồng bào về một Việt Nam khao khát hòa bình, sẵn sàng hy sinh đến những người con cuối cùng để Nam Bộ và giang sơn Việt Nam thu về một mối.
Trong thời đại ngày nay, trước sức ép cạnh tranh của các loại hình truyền thông, nhất là truyền thông số, mạng xã hội; Đài phát thanh có lúc, có nơi gặp nhiều khó khăn, thách thức. Song nhìn lại bề dày lịch sử 80 năm đồng hành cùng đất nước của Đài Tiếng nói Việt Nam nói chung, lịch sử vẻ vang của Đài Nam bộ Kháng chiến nói riêng; truyền thống ấy lại càng được tô thắm và tự hào thêm ở từng giai đoạn. Đồng thời cũng khẳng định một chân lý; dù có bất cứ khó khăn, trở ngại, thậm chí là hiểm nguy nào; nếu đoàn kết, thống nhất, sống với lý tưởng của người “Chiến sĩ phát thanh” chắc chắn chúng ta sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đại tá, AHLLVT Nhân dân Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) – một vị thính giả “thủy chung” với ngành phát thanh từ thời Đài Tiếng nói Nam Bộ Kháng chiến đến ngày hôm nay cho biết: “Ngày nào cũng nghe Đài tới 10h mới ngủ. Nghe đài để biết tình hình thế giới ra sao, rồi tình hình kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, bây giờ đề ra như vậy thì tiến lên như thế nào? Mục tiêu năm nay phát triển 8% rồi phải tiến lên hai con số nữa. Mình tin rằng sẽ làm được. Dân mình dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ vượt qua. Bởi vì Đảng lãnh đạo chiến tranh giỏi, bây giờ lãnh đạo kinh tế, xung quanh người ta cũng ca ngợi hết. Thành ra mình tin tưởng”.
Thời gian thấm thoắt trôi qua, các bác, các cô chú của Đài Tiếng nói Nam Bộ xưa cũng lần lượt rời cõi tạm; để lại những dấu ấn, kỷ niệm không quên. Những đóng góp, hy sinh của họ chính là những “tượng đài” cho nhiều thế hệ cán bộ, nhân viên ngành phát thanh noi theo.
Hòa chung dòng chảy 100 năm Báo chí cách mạng Việt Nam hình thành và trưởng thành, đội ngũ nhà báo vẫn hăng say lao động với tôn chỉ “bút sắc, lòng trong”, xứng đáng là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.