Đại diện cho những người con Nam Bộ “mang chuông đi đánh xứ người” có hai bậc tài danh của đất Cần Thơ là nghệ sĩ Tám Danh và nghệ sĩ Bảy Nhiêu. Trong chuyến lưu diễn lịch sử ở trời Tây, hai “ông hoàng” đã quảng bá loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc đến với thế giới.
Cột trụ sơ khai của Cải Lương Nam Bộ
Ở Nam Bộ - cái nôi sinh ra Đờn ca tài tử và Cải lương, hai bậc tài danh để lại ấn tượng đậm sâu về tinh thần tâm huyết và tài nghệ hơn người chính là đôi nghệ sĩ Tám Danh và Bảy nhiêu.
Hai người được sinh ra trên đất Cần Thơ, làm trụ cột đầu tiên của những gánh hát “đại bang” trong lĩnh vực sân khấu cải lương thuở sơ khai. Nghệ sĩ Tám Danh tên thật là Nguyễn Phương Danh, sinh năm 1901 tại làng Nhơn Nghĩa, quận Châu Thành, tỉnh Cần Thơ, cặp bờ kinh Vàm Xáng.
“Ngọc ngà” của nghệ thuật cải lương đã biết đàn ca năm lên 9 tuổi, 12 tuổi đi theo gánh hát bội, 15 tuổi hát cho gánh xiếc và trụ cột của gánh hát Năm Tú (Mỹ Tho). Tài nghệ thượng thừa của Tám Danh là “kép võ” vì ông được học múa kiếm, đao, côn và quyền cước từ nhỏ. Còn nghệ sĩ Bảy Nhiêu tên thật là Huỳnh Năng Nhiêu, sinh ra tại Thốt Nốt (TP. Cần Thơ) vang danh tài nghệ là “kép mùi”.
Ông có tiếng ca nghe “nhức xương, nát ruột” và kỹ năng biểu diễn đa vai. Buổi “bình nh” của cải lương, hai “ông hoàng” này là một trong những người “đứng mũi chịu sào”, dàn dựng những vở thể nghiệm thành công, góp phần đưa cải lương lên đỉnh cao mới.
Nghệ thuật sân khấu và diễn xướng dân gian Nam bộ có những cột mốc đáng nhớ trong tiến trình “mang chuông đi đánh xứ người”, đó là: hát bội lưu diễn ở Paris năm 1889, đờn ca tài tử “xuất ngoại” lần đầu năm 1906 và một gánh cải lương được mời sang Pháp biểu diễn năm 1931. Để chuẩn bị cho Hội chợ triển lãm thuộc địa quốc tế năm 1931 ở Paris, thành phố Saigon đã thành lập một ủy ban tuyển chọn gian hàng Nam Kỳ.
Ủy ban này đã chọn gánh hát Phước Cương của ông bầu Nguyễn Ngọc Cương (thân sinh của NSND Kim Cương) lưu diễn ở Pháp và gọi là lĩnh vực “sân khấu mới”. Tham gia chuyến lưu diễn lịch sử ở trời Tây này có 03 nghệ sĩ: kép chánh Tám Danh, kép chánh Bảy Nhiêu và đào chánh Năm Phỉ.
Tại Pháp, 03 nghệ sĩ đã diễn khá nhiều vở, như: Phụng Nghi Đình, Xử án Bàng Quý Phi, Sỹ Vân Công Chúa. Để lại ấn tượng đầu tiên là vở Tứ Đổ Tường do Tám Danh thủ vai anh chồng nghiện ngập Hà Công Yên. Vở diễn lên án thực dân Pháp âm mưu tha hóa, làm hư dân thuộc địa bằng hút xách, cờ bạc, trai gái.
Nghệ sĩ Tám Danh có lối diễn xuất thần đã hóa thân trọn vẹn một kẻ nghiện á phiện, say sưa, bỏ vợ con, cuối đời kéo xe kiếm sống. Đoạn cuối của cuộc đời kẻ nghiện ngập với hai dòng nước mắt tuôn trào, cái ệng méo xệch đã phơi bày sự thật cay đắng về số phận của một dân tộc bị đế quốc thực dân thống trị. Nước mắt khán giả cũng trào tuôn vì cảm thông và đau xót rồi vỗ tay giậm chân vang rạp.
Ông Nhâm Văn Hùng – nguyên Phó Giám đốc Nhà hát Tây Đô, TP. Cần Thơ cho biết tài nghệ của “ông vua” diễn xuất Tám Danh: “Nghệ sĩ Tám Danh đứng vào hàng ngũ kép chánh thượng đẳng, đóng đủ loại vai, từ: quan vua, chính diện, phản diện. Đặc biệt người nghệ sĩ này là “bậc thầy” trong vũ đạo cải lương, từ: bước đi, lối đánh, động tác hình thể. Ông vận dụng và sưu tầm hết những kiến thức về vũ đạo, như: nhảy đầm, múa Ấn Độ, múa Trung Hoa,… đều chắt lọc để vận dụng vào lối diễn cải lương. Đây là người tài năng toàn vẹn”.
Tiếng vang quốc tế
Cũng trong chuyến lưu diễn này, nghệ thuật phương Tây được mở mang tầm mắt khi xem vở Xử án Bàng Quý Phi. Nghệ sĩ Bảy Nhiêu hóa thân xuất sắc vai vị vua Tống Nhân Tôn hạ lệnh ban chết cho người vợ tào khang Bàng Quý Phi do nghệ sĩ Năm Phỉ thủ vai.
Dù khán giả khi đó không biết văn bản và ngôn ngữ, nhưng nhìn nghệ sĩ khóc diễn cảm, van nài thê lương, cảm xúc tức giận khủng khiếp, niềm hy vọng dâng trào, nỗi tuyệt vọng thống khổ,…làm khán giả bị say mê theo sự quyến rũ của kịch biến.
Khán giả phương Tây nhìn thấy một con người An Nam thủy chung với tình yêu tôn thờ, ngay cả chết cũng rất trang nhã hoàn toàn Đông phương. Cái chết của nhân vật sủng phi trên sân khấu Paris làm thổn thức con tim của khán giả và gieo lên nhiều suy ngẫm sâu lắng về số phận chung của con người bị trói buộc dưới hoàn cảnh của thời đại. Qua những thông điệp tang thương u tối ấy, cải lương Nam Bộ - Việt Nam đã nâng chất nghệ thuật sân khấu phương Đông và đạt được sự cảm thông của khán giả khác tiếng nói và màu da.
Ông Nhâm Văn Hùng – nguyên Phó Giám đốc Nhà hát Tây Đô kể tiếp: “Bảy Nhiêu xuất sắc ở cái vai này, một vị vua trẻ đầy tình cảm, cầm bút phê án tử người vợ yêu quý với gương mặt thất thần, đau đớn. Nhìn thấy lối diễn xuất thần lúc phê án tử ai cũng xót. Còn nhân vật sủng phi do cô Năm Phỉ diễn thì cô có giọng ca xuất sắc lạ thường, cô quỳ xuống van này khóc mướt, khán giả khóc theo. Tới khi vua phê án tử, sủng phi ngất xỉu, màn sân khấu đóng lại, người ta vỗ tay vang trời. Đây là 03 vai diễn xuất sắc không bao giờ nhạt phai trên đất diễn Paris”.
Tiếng vang từ Paris về đoàn Phước Cương và thiên tài diễn xuất Tám Danh, Bảy Nhiêu, Năm Phỉ đã thu hút khán giả người Pháp ở Đông Dương tìm đến nghệ thuật sân khấu cải lương. Chính thông tấn báo chí và các nhà phê bình nghệ thuật nước Pháp thời điểm đó đã ca ngợi cải lương là “một cuộc cách mạng của sân khấu cổ điển”, làm thay đổi cái nhìn tiêu cực thờ ơ của các thế hệ Pháp kiều đối với nghệ thuật sân khấu An Nam.
Họ khẳng định, nghệ thuật cải lương rất gần gũi vì nghệ sĩ đứng trước mặt, yêu thương và đau khổ giống như khán giả ngồi ở khán đài. Góc nhìn từ Paris cho thấy, cải lương đã xóa đi biên giới quốc gia, ngôn ngữ, chủng tộc; đem lại nhận thức về giá trị nhân bản, sự tôn trọng và niềm cảm thông của truyền thống văn hóa nghệ thuật phương Tây.
Cũng chính từ tài năng xuất thần mà nghệ sĩ Tám Danh và Bảy Nhiêu diễn vai nào là “đóng dấu” vai đó, ít ai dám diễn lại bởi cái bóng của hai ông quá lớn. Một ông vua trong Xử án Bàng Quý Phi phương phi, oai vệ; một Tề thiên đại thánh náo loạn, đi đủ đường võ nghệ trong Mẫu Đơn Tiên.
Dù công khai phê phán chế độ thực dân nhưng cả ba nghệ sĩ Tám Danh, Bảy Nhiêu và Năm Phỉ lại được chính quyền Pháp trọng vọng, đưa rước bằng phi cơ. Hai bậc tài danh Tám Danh và Bảy Nhiêu trở thành “tài tử”, nghệ sĩ Năm Phỉ trở thành “nh tinh”. Nữ hoàng Hà Lan mời cả 03 nghệ sĩ sang biểu diễn ở hoàng cung, sau một năm trở về nước, mỗi nghệ sĩ lãnh gần 50 ngàn quan Pháp.
Ông Nhâm Văn Hùng – nguyên Phó Giám đốc Nhà hát Tây Đô cho biết cái thời huy hoàng của nghệ sĩ Bảy Nhiêu: “Lương của đào kép khác có 12 đồng/tháng mà lương của Bảy Nhiêu đã là 20 đồng/tháng. Mấy năm sau từ khi trở về từ Paris, lương của nghệ sĩ Bảy Nhiêu đã tăng lên 50 đồng/tháng, do tài năng đóng vai “kép mùi”, ca rất hay. Cứ cải lương mà không có vọng cổ là khán giả người ta chê, mà ông Bảy Nhiêu hát hay lắm, đó là cái công của ông ấy”.
Là “kép võ”, nghệ sĩ Tám Danh đã đóng góp cho sân khấu Việt Nam kiến thức quý báo thông qua việc biên soạn giáo trình hình thể vũ đạo cải lương. Đến nay, giáo trình này vẫn là duy nhất và là sách “gối đầu giường” cho sinh viên các trường nghệ thuật sân khấu. Ông đã làm nên một bước ngoặt mới khi đưa võ thuật và múa phương Tây lên sân khấu cải lương, những vở cải lương cổ trang trở nên mềm mại, sinh động.
Nghệ sĩ ưu tú, đạo diễn Ca Lê Hồng – học trò của nghệ sĩ Tám Danh kể lại: “Ông là người vận dụng hết những tinh hoa từ hát bội để chuyển qua cải lương nhưng không bảo thủ, vừa truyền thống vừa hiện đại. Từ Phụng Nghi Đình, Võ Thị Sáu, Kiều Nguyệt Nga,…và tất cả những vở cải lương tiêu biểu của cải lương Nam Bộ thì dựa vào vũ đạo của ông Tám Danh. Ông đã đúc kết vũ đạo từ kiếm, đao, mã tấu, quạt,… hầu hết các đoàn cải lương Nam Bộ thuở xưa ngày nào cũng học luyện kiến thức vũ đạo này của ông.
Cô là học trò, xuất thân từ dân múa mà chuyển qua cải lương được ông chỉ dạy, bây giờ kỹ năng đó đã giúp cô ứng dụng rất nhiều từ công tác đạo diễn đến diễn xuất. Cuộc đời bác Tám Danh tài hoa lắm, tận tình hết dạ với nghề, mà hồi đó học trò ai mà yêu sớm là bị ông rầy, ông nói lo chú tâm mà học. Cả cuộc đời ông là một người nghệ sĩ luôn tìm tòi tinh hoa nghệ thuật để đưa vào cải lương Nam Bộ”.
Hai bậc tài danh nghệ sĩ Tám Danh và nghệ sĩ Bảy Nhiêu không chỉ nuôi dưỡng tâm hồn một thế hệ khán giả yêu mến cải lương mà còn nỗ lực không mệt mỏi để góp phần phát triển loại hình nghệ thuật này một cách sâu rộng. Hai bậc tài danh đã không ngừng tìm kiếm, nâng niu tinh hoa các lọai hình nghệ thuật đông - tây - kim - cổ.
Chính hai người đã cách tân, sáng tạo, đưa nghệ thuật cải lương vượt qua quy luật khắt khe của thị trường, đạt được thành tựu vô cùng rực rỡ mà không phải bộ môn nghệ thuật nào cũng may mắn có được. Từ đó, phong trào đờn ca tài tử và cải lương ngày càng phát triển, thu hút sự quan tâm của công chúng. Nhiều giọng ca trưởng thành từ những phong trào này là nguồn bổ sung lực lượng “vàng” cho sân khấu cải lương chuyên nghiệp, tồn tại hơn 100 năm.