Trong số đó, rạp Hậu Giang là rạp nổi tiếng nhất, gắn liền cuộc đời của nhiều nghệ sĩ thời xuân sắc.
Thời vàng son của rạp hát Tây Đô
Hồi xưa ở Miền Tây, muốn biết tỉnh đó lớn hay nhỏ chỉ cần căn cứ vào số rạp chiếu bóng của họ, tỉnh lớn, dân số đông ắt sẽ đi coi hát nhiều. Tỉnh vừa vừa như Kiên Giang (cũ) thì có 03 rạp: Châu Văn, Đồng Thinh, Hòa Lạc. Mỹ Tho thì có rạp Định Tường chuyên chiếu phim Tây, rạp Viễn Trường cho đoàn cải lương trung ban mướn; rạp Vĩnh Lợi cho đại ban mướn diễn phúc khảo tuồng mới.
Tại Cần Thơ, thời điểm này, một vài gia đình có vô tuyến nhỏ xíu trắng đen đã là giàu lắm nhưng chương trình phát sóng giới hạn, chỉ phát vào buổi tối. Cho nên, cái thú đi xem xi-nê ở các rạp hát được ưa chuộng nhất và những ông chủ tư nhân cũng nắm bắt được thị hiếu này mà đổ tiền xây dựng những hí viện bề thế.
Năn 1956, Cần Thơ đã xuất hiện 5 rạp hát đủ loại, đứng hàng số 1 đồng bằng nằm trong trục đường từ khu vực Trần Hưng Đạo về đến Phan Đình Phùng và bến Ninh Kiều ngày nay. Rạp Casino thì chuyên chiếu phim tình cảm Ấn Độ, rạp Huỳnh Lạc trình làng tác phẩm mới của dòng phim cao bồi Mỹ, rạp Tây Đô chỉ tập trung chiếu phim kiếm hiệp, rạp Li-Do thì “cầm trịch” phim võ thuật Hồng Kông, rạp Minh Châu chuyên trình diễn cải lương trực tiếp, hí viện Huỳnh Cẩm Văn chuyên tổ chức các buổi trình diễn văn nghệ của các trường học và tổ chức đại nhạc hội.
Trong số này, rạp Minh Châu là nơi hội tụ của các đoàn cải lương nổi tiếng nhất ền Nam, như: Dạ lý Hương, Thanh Minh - Thanh Nga, Hương Mùa Thu, Kim Chung, Kim Chưởng. Sau giải phóng, rạp Minh Châu được đổi tên là Thống Nhất rồi sáp nhập với hí viện Huỳnh Cẩm Văn và trở thành tiền thân của rạp hát Hậu Giang mà nay hợp nhất gọi là Nhà hát Tây Đô.
Ông Trần Văn Thiện – nguyên Phó Giám đốc Nhà hát Tây Đô, TP. Cần Thơ kể lại: “Ở Cần Thơ có dân thương hồ tư xứ về buôn bán ở chợ Cần Thơ, có cả bến xe hoạt động nữa. Ban ngày họ mua bán nên đâu có gì để mà coi, từ chỗ đó mà chiều là ăn cơm sớm để tối đi coi hát. Họ đậu ghe lềnh ở chỗ bến Ninh Kiều, họ khoái nghe ca vọng cổ dữ lắm, mỗi lần nghệ sĩ xuống một câu vọng cổ là vỗ tay rần rần luôn”.
Trong ký ức của người Cần Thơ cái thời rạp Minh Châu hoạt động, mỗi khi có gánh hát cải lương đến, cách quảng cáo rất rùm ben và náo động là sử dụng xe lam. Trên xe có người đánh trống “tùng xèng”, hai bên thành xe gắn hai tấm pa-nô về vở tuồng sắp diễn, phụ xe phát tờ chương trình quảng cáo, trẻ con chạy theo cố xin cho được tờ chương trình xanh, đỏ, trắng, vàng.
Năm 1960, khi thương hồ còn đói no theo từng phiên chợ vậy mà rất chú trọng phong cách đi coi hát. Bất kể đi xem chiếu bóng, cải lương hay đại nhạc hội, khán giả Cần Thơ ăn mặc tươm tất, lịch sự. Các bà, các cô chải chuốt cẩn thận, họ hay đem theo chiếc khăn mùi xoa khi đi coi cải lương để đợi đến cảnh thương tâm là dùng khăn lau nước mắt.
Một trong những vở tuồng in hằn trong trí nhớ thời thơ ấu của người Cần Thơ thuở ấy là vở Thuyền Ra Cửa Biển do hai danh ca Út Trà Ôn và Thanh Nga thủ vai. Tiếng hát nghệ sĩ mùi mẩn chân phương với cảnh bày trí sân khấu con thuyền từ từ ra khơi dưới vầng trăng sáng đã khiến khán giả trong rạp được ru mình trong lời ca ngọt ngào, sâu sắc.
Ông Trần Văn Thiện – nguyên Phó Giám đốc Nhà hát Tây Đô kể về cái thời bán vé mỗi khi rạp Minh Châu mở tuồng mới: “Sáng mở cửa 7h bán vé, dân chợ đen lựa mua toàn vé tốt, mình tới trễ là mua vé trên lầu, mà cải lương ngồi trên lầu thì người ta không chịu vì không thấy cận gương mặt nghệ sĩ. Hồi đó vé hạng 1 là ba hàng ghế đầu, kế đến ghế hạng 2 và cuối cùng là hạng “cá kèo” phải lên lầu hoặc đứng xem.
Nhiều người muốn xem quá mua vé đại, vô có chỗ ngồi hay không cũng không sao, ễn vô được là đứng xem cũng được, lúc đó là đứng chật cứng rạp. Nhiều người thấy làm ăn được, bèn thủ thỉ khán giả đang đứng, nói rằng cho thuê mỗi ghế 2 đồng bạc, người ta sẵn sàng thuê ghế thêm tiền, lúc đó bắt ghế ngồi chật rạp luôn”.
Giữ lửa sân khấu giữa dòng chảy thời đại
Tới cái thời đổi tên thành rạp Thống Nhất, cải lương ở Cần Thơ vẫn là món ăn tinh thần trọng yếu, là yếu tố quyết định lượng vé hằng đêm. Thời điểm này, chính nhờ rạp Thống Nhất đã mang về sinh kế cho nhiều họa sĩ với nghề vẽ pa-nô quảng cáo.
Trong đó có nhà vẽ Bút Ngân trên đường Lý Thái Tổ là nổi tiếng nhất. Ở tiệm này, họa sĩ đứng vẽ và tô màu trên những khung vải to lớn cả ngày lẫn đêm. Một vài tấm đã vẽ xong, được dựng ngoài cửa, màu sắc rực rỡ, có tên tuồng, tên nghệ sĩ thật to đã kích thích thị hiếu và lôi cuốn người qua lại.
Nhìn thoáng qua thì dân thành thị đã chắc nịch ít ngày tới có “đại ban” cải lương nào đó sẽ về Cần Thơ diễn tuồng, từ đó rủ nhau chờ ngày phát vé. Ở đó, người nghệ sĩ đã một thời kiêu hãnh được đứng trên sân khấu vạn người mê, đem lời ca tiếng hát phục vụ cho công chúng.
NSƯT Kiều Mỹ Dung – cựu diễn viên của Đoàn cải lương Tây Đô nhớ lại một thời đi diễn ở rạp hát Thống Nhất: “Cái thời hoàng kim cải lương, một vở mà diễn 5 đêm liên tục vẫn được khán giả ủng hộ. Hồi đó cô bệnh, dân mua vé chợ đen gởi thuốc cho cô, sợ cô hát không được. Gửi 5 cái bánh bao cho cô để cô ăn, nhớ hoài thời đó bánh bao nó to ơi là to, rồi chia cho đoàn ăn tiếp”.
Rực rỡ là khi rạp Thống Nhất sáp nhập với hí viện Huỳnh Cẩm Văn và lấy tên là rạp Hậu Giang, cơ sở đặt tại đường Trần Hưng Đạo. Ở cái thời đỉnh cao của cải lương, người mộ điệu ngồi chật kín dưới hàng ghế khán giả, rạp Hậu Giang đã đáp ứng được cơ sở vật chất để một sân khấu hoành tráng luôn sáng đèn hằng đêm.
Ở cái rạp này, chỉ riêng Cần Thơ đã có 08 đoàn nghệ thuật đứng chân thay phiên biểu diễn cải lương. Chưa kể những đoàn “đại ban” thường xuyên thuê rạp để biểu diễn những tuồng tích mới.
Ông Trần Văn Thiện – nguyên Phó Giám đốc Nhà hát Tây Đô cho biết thêm: “Thời đó đoàn lớn hay nhỏ hễ về Cần Thơ là hát ở rạp Hậu Giang. Rạp này nó rộng, sân khấu có nóc cao hơn, khán phòng và lối thoát hiểm thoáng hơn rạp cũ. Thời trước năm 1986 là rạp đó diễn một ngày 2 suất, sau năm 1986 đổi mới, sản phẩm giải trí nhiều hơn nên dân chúng cũng có nhiều sự lựa chọn nhưng rạp Hậu Giang vẫn huy hoàng với những vở cải lương mới. Cho tới năm 2000 nó mới thưa dần”.
Năm 2007, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch TP. Cần Thơ thành lập Nhà hát Tây Đô trên cơ sở sửa chữa, nâng cấp rạp Hậu Giang cũ với kinh phí khoảng 7 tỉ đồng.
Rạp có 550 ghế, diện tích khoảng 1.000 m2 với 2 đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp đứng chân là Đoàn cải lương Tây Đô và Đoàn ca múa kịch Lưu Hữu Phước.
Chức năng của nhà hát này được mở rộng để tổ chức các loại hình nghệ thuật chuyên nghiệp, như: cải lương, ca múa nhạc, kịch nói; đào tạo, truyền nghề, nghiên cứu, bảo tồn đối với các loại hình nghệ thuật dân gian.
Sự ra đời của Nhà hát Tây Đô thời điểm này tiếp tục duy trì “ngọn lửa” cho hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp của TP. Cần Thơ nói riêng và vùng Tây Nam Bộ nói chung.
Nhưng cũng theo xu thế thời đại, bây giờ do đã có truyền hình cáp, ở nhà chỉ cần nhấn nút là có thể vô tư xem phim từ sáng tới chiều, đâu còn ai có cái thú đi xem phim ở các rạp hát như ngày xưa nữa. Nhà hát Tây Đô cũng có lúc rơi vào ế ẩm khi chương trình cứ thưa dần, thỉnh thoảng mới có suất diễn.
Để không tắt lửa rạp hát một thuở huy hoàng, Sở VHTT&DL thành phố đã tổ chức biểu diễn nghệ thuật định kỳ tại Nhà hát Tây Đô với tên gọi “Dạ cổ Cầm Thi”, biểu diễn phục vụ khán giả các trích đoạn, chập cải lương, tân cổ giao duyên, vọng cổ… với thời lượng khoảng 70 phút.
Đây là nỗ lực của Nhà hát Tây Đô trong bảo tồn nghệ thuật truyền thống, tạo điểm đến vui chơi cho người dân và du khách. Đây cũng là cách lưu giữ phát huy những giá trị của rạp hát chủ lực, một thời là cả bầu trời ký ức của dân Tây Đô.