Qua miệt cầm ca (Bài 17): Nghệ sĩ Bảy Cao – người duy nhất làm “cải lương điện ảnh”

Buổi đầu cải lương mới hình thành, gánh hát phiêu lưu rày đây mai đó, chở theo nghệ sĩ, đạo cụ, phục trang. Ở cái thời sơ khai đó, lĩnh vực mỹ thuật sân khấu rất được đầu tư, nhiều hoạ sĩ chuyên vẽ phông cảnh sân khấu tả thực hoành tráng có nhiều cơ hội “dụng võ”.

Cho đến một ngày, họa sĩ những đoàn hát ở Nam Bộ bắt đầu ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một lối kỹ thuật thể hiện mang tên “cải lương- điện ảnh” và người nghệ sĩ duy nhất làm được việc này thời điểm đó là Bảy Cao. Nghệ sĩ Bảy Cao đã tạo nên một cuộc cải cách sân khấu khi cải lương mới lên 20 tuổi.

Cuộc cách tân "Cải lương - Điện ảnh"

Cấu trúc tác phẩm nghệ thuật cải lương là một chỉnh thể tổng hòa từ: kịch, ca nhạc, phục trang - hóa trang, thiết kế sân khấu và đạo cụ. Thiết kế sân khấu cải lương thường phân thành hai công đoạn, vẽ phông màn và bài trí sân khấu, hai công đoạn này đều phải tuân thủ nguyên tắc tả thực của sân khấu. Nếu là một gian phòng thì có cửa ra vào, cửa sổ đóng mở được, có giường - bàn - tủ như thật. Nếu là núi rừng thì có cây cối đất đá, nếu là đêm trăng thì có ánh trăng trên trời, vì sao lấp lánh, mây bay lơ lửng.

Nghệ sĩ Bảy Cao - người đã tạo nên một cuộc cải cách sân khấu khi cải lương mới lên 20 tuổi với mô hình "cải lương - điện ảnh".

Hai mươi năm đầu của cải lương, sân khấu được giao về tay những họa sĩ tài danh. Năm 1945, đoàn cải lương Hậu Tấn Bảy Cao ra đời do nghệ sĩ Bảy Cao làm ông bầu đã “canh tân” sân khấu với kỹ thuật thủ công chẳng ai có thể ngờ tới, tuy không cao siêu nhưng lại không có đoàn nào làm được, đó gọi là mô hình “cải lương - điện ảnh”.

Nghệ sĩ Bảy Cao tên thật là Lê Văn Cao, sinh năm 1916 tại làng Vĩnh Lợi (tỉnh Bạc Liêu cũ). Chỉ cần nghe ai đó ca một lần là bản thân đã ca lại được ngay nên cậu bé Bảy Cao thuở xưa nổi tiếng là “thần đồng”, năm lên 7 tuổi đã biết ca các bản vắn, như: Hành vân, Bình bán, Khổng Minh tọa lầu... kể cả bản dài như Tứ đại oán cũng ca được.

Nhưng người nghệ sĩ này không thành danh ở vai trò nghệ sĩ mà lại tỏa sáng ở vị trí thầy tuồng. Từ năm 1941 – 1944, nghệ sĩ Bảy Cao đầu quân cho nhiều “đại bang” cải lương danh tiếng, như: Phước Cương, Hề Lập, Hậu Tấn.

Đến năm 1945 ông “kế nghiệp” đoàn Hậu Tấn và đặt tên là Hậu Tấn Bảy Cao (sau này đổi thành đoàn Hoa Sen). Đoàn khai trương với vở Cô gái Quảng Trị đã được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt. Dần dần theo sở thích của người xem, ông đã phát huy triệt để những vở kiếm hiệp, những vở mới thuộc loại hương xa, như: Lưỡng Long đại hiệp, Hồng châu hiệp nữ và Đề Thám.

Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian tỉnh Cà Mau Trần Phước Thuận cho biết: “Thời kỳ này có nhiều đoàn cải lương ra đời nhưng nổi tiếng nhất có 2 đoàn Thanh Minh (do nghệ sĩ Năm Nghĩa sáng lập) và đoàn Hoa Sen của nghệ sĩ Bảy Cao.

Ông Bảy Cao có lối trình bày sân khấu rất mới, không ai bắt chước được, chính là cải lương phim ảnh. Bất cứ kịch bản cải lương nào của cụ cũng kèm theo phim để chiếu trên màn hình, pha trộn tài tình giữa phim và cải lương nên cụ rất thành công với tài nghệ này”.

Hình ảnh ghi lại đoàn cải lương Hậu Tấn Bảy Cao đi lưu diễn

Gánh hát Hậu Tấn Bảy Cao đã oanh liệt một thời với ngôi “bá chủ cải lương”, cái hay của nghệ sĩ Bảy Cao là vừa làm bầu, vừa viết tuồng lại vừa làm kép chánh nhưng công việc của đoàn hát vẫn chạy đều đều. Sở trường “không có đối thủ” của nghệ sĩ Bảy Cao thời điểm này là ông luôn tìm cái mới trong nghệ thuật để phục vụ khán giả.

Bằng khả năng sáng tạo của mình, ông đã đem phim ảnh của phương Tây hòa nhập vào các kịch bản của mình để tạo ra một sắc thái thật mới mẻ, có sức thu hút người xem rất mạnh và gọi đó là “cải lương - điện ảnh”. Trong một số vở tuồng của đoàn Hậu Tấn Bảy Cao có cảnh mây bay nước chảy, cảnh máy bay ném bom, cảnh đánh nhau bằng súng đạn... được chiếu trên phông màn. Đó là một “hiện tượng” tân kỳ rất hấp dẫn, được khán giả nhiệt liệt hưởng ứng, hiện tượng này chỉ có một mình nghệ sĩ Bảy Cao độc quyền vì chẳng có đoàn nào kế tục.

Di sản sáng tạo để lại cho hậu thế

Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian tỉnh Cà Mau Trần Phước Thuận kể, nghệ sĩ Bảy Cao nổi tiếng là một người sáng tạo, chấp nhận cực khổ nhưng sân khấu phải có cái mới hơn người:

 “Sân khấu thì cũng giống như những sân khấu khác, tuồng tích thì cũng giống nhau chứ không có gì khác. Nhưng có cái khác là ông Bảy Cao có cái cách “chế tác” cái màn bên trong sân khấu để chiếu phim.

Mấy chục năm trước muốn chiếu phim phải có màn vải trắng để chiếu phim lên đó, thì ông Bảy Cao làm y vậy đó. Ngày xưa hát một tuồng thì trưng bày rất nhiều cảnh, hát xong “dân dọn” dọn dẹp cực lắm, ông Bảy Cao còn tạo thêm cái cực mới nữa là treo cái màn trắng trên sân khấu. Cái này phải nói là ông đã khéo điều động người để làm theo ý mình”.

Gánh hát Hậu Tấn Bảy Cao đã oanh liệt một thời với ngôi “bá chủ cải lương”. Trong một số vở tuồng của đoàn Hậu Tấn Bảy Cao có cảnh mây bay nước chảy, cảnh máy bay ném bom, cảnh đánh nhau bằng súng đạn... được chiếu trên phông màn.

Các vở tuồng, như: Ðoàn Chim Sắt, Mộng Hòa Bình, Nợ Núi Sông,… có điện ảnh chen vào, phim màu quay cảnh sống ở Ðà Lạt đẹp mắt đã khiến khán giả “săn lùng” đủ các loại vé xem hát mà đoàn Bảy Cao tung ra và tiền bạc nối tiếp nhau chạy vào hầu bao của đoàn Hậu Tấn Bảy Cao.

Những người am tường nói rằng, chỉ cần một ngày chủ nhật hát hai suất, tối và 3 giờ chiều, thì ít nhất nghệ sĩ Bảy Cao cũng lời 60 ngàn đồng (thời điểm này vàng chỉ hơn 2.000 đồng/lượng). Rạp hát với 800 ghế ngồi, vé thượng hạng 40 đồng, hạng cá kèo 10 đồng, chỉ cần bán phân nửa số ghế thì coi như bầu gánh đã có lời. Cứ hai đêm hát là nghệ sĩ Bảy Cao mua được một chiếc xe Simca, 10 năm “hoàng kim”, nghệ sĩ Bảy Cao đã tạo được khối tài sản lớn.

Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian tỉnh Cà Mau Trần Phước Thuận cho biết: “Chú nhớ hồi còn nhỏ, mỗi lần rạp Hoa Sen về trung tâm Bạc Liêu là phải mua vé trước rất lâu, không thôi hết vé. Vé của đoàn Bảy Cao đắt nhất ở Bạc Liêu và đi đến đâu cũng bán rất đắt. Bất cứ kịch bản hay tuồng tích nào của đoàn Bảy Cao cũng được đón nhận”.

Nghệ thuật dàn dựng sân khấu ngày xưa của đoàn Hậu Tấn Bảy Cao nay được gọi là màn hình Led trên sân khấu để nh họa cho vở diễn hoặc bài hát thêm sống động.

Ðang làm ăn ngon lành thì do có sự bất đồng đưa đến bất hòa giữa nghệ sĩ Bảy Cao và “cổ đông” đoàn hát, họ đã bỏ ra đi, nghệ sĩ Bảy Cao rầu rĩ để mặc cho đoàn Hoa Sen xuống dốc không ai lôi kéo lại được.

Từ ngôi “bá chủ cải lương”, chỉ trong mấy năm sau, Hoa Sen chỉ còn là một sân khấu nhỏ bé hát quận, hát làng và rã gánh. Dù đoàn cải lương tan rã nhưng mô hình “cải lương – điện ảnh” đã ghi nhận cuộc “cải cách” vĩ đại của Bảy Cao, người nghệ sĩ lớn lên từ phong trào Đờn ca tài tử ệt vườn nhưng có trí sáng tạo và canh tân mỹ thuật sân khấu hơn người.

NSƯT Khưu Minh Chiến, nguyên Trưởng đoàn cải lương Cao Văn Lầu cho rằng, chính sự sáng tạo của những bậc Tổ trong nghề là yếu tố duy trì cải lương trong hơi thở thời đại: 

“Ngày xưa tác giả là đạo diễn, các cụ viết tới chỗ đó muốn có mưa là phải suy nghĩ làm cách nào để tạo mưa, mà làm thủ công nhiều khi đưa ống nước lên sân khấu rồi xịt xuống tạo mưa. Khi mà tài tử chuyển sang cải lương thì bậc Tổ nghề đã phải hoạt động và sáng tạo nhiều lắm, từ đó cải lương mới tồn tại đến hôm nay, nếu không thì cải lương đã chết từ lâu rồi. Đạo cụ là ngôn ngữ nói mà, nên cách nghiên cứu dàn dựng phải thu hút khán giả. Ví dụ, mua cái đèn 1000W về, gắn kính lúp rồi vẽ màu lên, thời đó chỉ có mấy người làm được mà phải yêu nghề lắm mới làm được”.

Chính sự sáng tạo này của nghệ sĩ Bảy Cao đã góp phần hình thành giáo trình đào tạo cho đạo diễn sân khấu. Giáo trình đó khẳng định, mỹ thuật trong sân khấu rất quan trọng, khắc hoạ vẻ đẹp lung linh bằng những cảnh tiên sa hay đồng xanh, rừng núi. Từ đó, mỹ thuật cải lương góp một tiếng nói hấp dẫn, chinh phục người xem để cải lương trường tồn.