Qua miệt cầm ca (Bài 16): Soạn giả Mộng Vân – người canh tân cổ nhạc

Trong trường phái Cổ nhạc Bạc Liêu do Hậu Tổ Nhạc Khị khai sinh, có một “môn đệ” sở hữu bút lực cực kỳ dồi dào, có tài sáng tác nhạc điệu với hơn 30 nhạc khúc, đó chính là soạn giả Mộng Vân.

Chính ông là người đầu tiên chuyển bản vọng cổ nhịp 8 thành nhịp 16, trực tiếp góp công bồi đắp cho bản vọng cổ ngày càng phong phú hơn. Tiếp tục loạt bài “Qua ệt cầm ca” chúng ta hãy cùng tìm hiều về cố soạn giả Mộng Vân – người làm nên “hiện tượng Mộng Vân” trên sân khấu cải lương những năm 1940.

Từ “lò” Nhạc Khị đến sự hình thành hiện tượng Mộng Vân

Vào đầu thế kỷ XX, nhạc sư Lê Tài Khí ( Hậu Tổ Nhạc Khị) thành lập ban nhạc lễ trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu (cũ) để đào luyện ra những nhạc sĩ, ca sĩ, soạn giả và sáng lập ra trường phái Cổ nhạc Bạc Liêu. Có chủ trương sáng tác rõ ràng là điểm ưu việt của Cổ nhạc Bạc Liêu trong việc xây dựng lực lượng nhạc sĩ kế thừa, người nhạc sĩ phải đờn hay, sáng tác giỏi và sáng tác theo một chủ đề nhất định.

Từ “chủ trương” nhất quán này, trường phái Cổ nhạc Bạc Liêu đã đào tạo ra một lực lượng kế thừa đông về số, mạnh về chất, lớn mạnh nhất làng cổ nhạc Nam Bộ thời kỳ cải lương sơ khai. Mộng Vân là một trong những môn đệ bước ra từ “lò” Nhạc Khị với tuyệt kỹ biên soạn kịch bản cải lương “thần tốc” và “canh tân” nhạc khúc (bản vắn cải lương) hơn người.

Soạn giả Mộng Vân với tuyệt kỹ biên soạn kịch bản cải lương “thần tốc” và “canh tân” nhạc khúc (bản vắn cải lương).

Soạn giả Mộng Vân tên thật là Phan Long Trung, sinh năm 1910 mà mất năm 1950 tại làng Vĩnh Lợi (tỉnh Bạc Liêu cũ). Lúc sinh thời Mộng Vân vốn đa tài, vừa là nhà báo, vừa là nhạc sĩ và làm soạn giả. Ông sớm có ý thức về cách mạng nên gói ghém ý nghĩa canh tân đất nước trong từng tác phẩm của mình, một thời được khán giả ái mộ. Nhưng từ trước đến nay lại ít có tài liệu nào ghi chép về cuộc đời và sự nghiệp của người soạn giả tài hoa này, cho đến khi Hội thảo khoa học về “hiện tượng Mộng Vân” tổ chức tại TP.HCM vào năm 1991, người ta mới bắt đầu tiềm kiếm những “di sản” của Mộng Vân trên sân khấu cải lương và bản Vọng cổ.

Giải thích cho khái niệm “hiện tượng Mộng Vân”, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Phước Thuận, người dành phần lớn thời gian sưu tầm và nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của vị soạn giả tài ba Mộng Vân, chia sẻ:

 “Điều đặc biệt của cụ Mộng Vân mà soạn giả khác không có được, đó là, trong hơn 10 năm cuối đời, cụ sáng tác ra 68 kịch bản cải lương. Mỗi kịch bản cải lương như thế được sử dụng cho nhiều đoàn cải lương lúc bấy giờ, đoàn dựng trước, đoàn dựng sau, có khi hai đoàn dựng 1 kịch bản của soạn giả Mộng Vân cùng một lúc. Bất cứ tuồng nào cũng được 3-5 đoàn sử dụng, thành quả này ở soạn giả khác khó lòng mà có được nên người ta gọi là hiện tượng Mộng Vân”.

Thời thơ ấu, chàng trai Mộng Vân đã để ý đến cổ nhạc, lại may mắn được học nhạc với bậc danh sư Nhạc Khị nên tiến bộ rất nhanh. Chỉ trong vài năm là Mộng Vân đã nắm bắt được gần như trọn vẹn sở đắc của thầy và phát huy sở trường sáng tác bên cạnh ngón đờn mùi mẫn mộc mạc. Cuốn sách Guinness Việt Nam thế kỷ XX của Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2001 khẳng định, soạn giả Mộng Vân chính là người sáng tác kịch bản cải lương nhiều nhất ở Việt Nam trong thế kỷ XX, điều này được chứng nh thông qua tài năng thiên bẩm.

Hai mươi tuổi đầu (1932), Mộng Vân đã viết xong một kịch bản lớn, đây là vở cải lương đầu tay của ông mang tên Quan Công hiển thánh, vở này để cao tình bè bạn, lòng trung nghĩa và tính ngay thẳng của con người. Trong đêm khai trương, mặc dù là tuồng tích mới, diễn viên cũng mới, không sao tránh được những bỡ ngỡ lúc đầu nhưng với phục trang sặc sỡ, cảnh trí huy hoàng và giọng ca thật mùi của dàn đào kép, khán giả hoan nghênh nhiệt liệt và ái mộ Mộng Vân.

Câu lạc bộ Đờn ca tài tử Bạc Liêu là tổ chức có nhiều soạn giả trẻ đang sáng tác ca cổ theo điệu Sương Chiều của soạn giả Tổ Mộng Vân để lại.

Bước sang năm 1933 dài đến năm 1944, Mộng Vân sáng tác liên tục những vở lớn, ra mắt vở nào đều chật kín sân khấu vở đó. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Phước Thuận nói thêm:

 “Tất cả các kịch bản cải lương của cụ Mộng Vân đều theo hướng mới dạng hương xa, kiếm hiệp. Tất cả diễn viên trang bị trang phục trên sân khấu rất lộng lẫy, sử dụng đao kiếm,… nên đây là đặc thù. Mỗi người soạn giả đều có ưu điểm riêng nhưng Mộng Vân là người đạt được nhiều ưu điểm cùng lúc”.

Canh tân cải lương và di sản nghệ thuật

Sáng tạo nổi bật nhất của Mộng Vân là việc ông sáng tác một số bản vắn để gối đầu vô Vọng cổ thay thế cho những câu nói lối đã có từ xưa. Ngoài ra, trong khi biên soạn kịch bản Mộng Vân thường sử dụng những nhạc bản mới do chính ông sáng tác, điều này khác rất xa so với soạn giả khác và cũng chính điều này đã chứng tỏ ông có khả năng rất lớn trong việc sáng tạo nhạc điệu.

Các nhạc bản loại này có trên con số 30, nhưng hiện nay người ta chỉ mới sưu tầm được 09 bản có ghi đẩy đủ dấu nhạc đó là: Quý phi túy tửu, Sơn Đông hướng mã, Kiều nương, Bá hoa, Giang Tô, Điểu ngữ, Phong nguyệt, Tấn phong, Tân xái phỉ và Sương chiều.

Hoạt động Đờn ca tài tử trên địa bàn tỉnh Cà Mau ( khu vực Bạc Liêu) vẫn đang hoạt động với nhiều câu lạc bộ, trau dồi và gìn giữ phát huy giá trị di sản. Trong những di sản này, có những sản phẩm cổ nhạc và cải lương do soạn giả Mộng Vân để lại.

Bà Trương Thị Chanh – Chủ nhiệm Câu lạc bộ Đờn ca tài tử Bạc Liêu, thành viên Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, người sáng tác nhiều tác phẩm vọng cổ theo điệu Sương chiều cho biết:

 “Sương chiều của cụ Mông Vân ngày nay cũng có nhiều bài bản, thật ra không khác nhiều, viết theo khuôn của cụ để lại nhưng phong cách hóa lên nhiều hơn thôi. Ngày xưa, viết vọng cổ nhịp 16, nay lên 32 thì phong cách khác. Nhưng điệu Sương chiều gần như là kinh điển, ai viết dựa trên điệu này cũng đều thành công. Ngày xưa lối sáng tác của cụ Mộng Vân rất dễ hát, tình cảm, gần gũi với đời sống hằng ngày. Mà cái gì dễ gần gũi là hậu thế dễ phát huy, mình cũng là một người học hỏi và phát huy điệu thức này của cụ”.

Một đặc điểm khác là kịch bản của Mộng Vân mang tính phổ cập rất lớn, không kén người diễn và người xem. Một vở tuồng của ông cùng lúc được nhiều đoàn trình diễn như: vở Bích Liên vương nữ đã được các đoàn Chấn Hưng, Nhạn Trắng, Tỷ Phượng, Lê Thành Lư cùng diễn trong một thời gian; hoặc vở Xâu chuỗi ngọc cũng được nhiều đoàn cùng diễn như: Chấn Hưng, Hậu Tấn Năm Nghĩa, Tiếng Chuông, Đồng Thinh.

Các đặc điểm nghệ thuật của Mộng Vân không những đã ảnh hưởng sâu đậm đến phong cách của nhiều soạn giả lúc bấy giờ, họ đã học theo lối sáng tác của ông. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gia Trần Phước Thuận cho biết:

 “Ngoài 30 bản tự Mộng Vân sáng tác để gối đầu vô Vọng cổ thì đặc biệt của cụ là sáng tác những bài mới mang hơi Quảng. Cụ đã căn cứ vào hơi nhạc Quảng, nhạc Tiều để chế tác ra những bài phục vụ đờn ca tài tử và cải lương cho người Việt ở Nam Bộ. Cái này mới là chữ tài thật sự và theo tôi, thời điểm đó, Mộng Vân là người đầu tiên làm việc này”.

Năm 1948, Mộng Vân lâm bệnh, hơn một năm thì ông từ giã cõi đời. Nhạc sĩ, nhà báo, soạn giả tài hoa Mộng Vân chỉ cống hiến cho nghệ thuật cải lương khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng được xem là trọn đời bồi đắp cho nền cổ nhạc Nam Bộ, mở ra một trường phái sân khấu cho cải lương Việt Nam.